Ảnh hưởng của 'cái chết đen' vẫn còn trong con người

Các nhà khoa học đã phát hiện ra một số biến thể di truyền giúp bảo vệ người châu Âu khỏi bệnh dịch hạch - nhưng điều này cũng làm tăng nguy cơ rối loạn miễn dịch.

Anh huong cua 'cai chet den' van con trong con nguoi

Các nhà khoa học đã kiểm tra DNA của những người sống cách đây hàng thế kỷ, trích xuất vật liệu di truyền từ hài cốt người được chôn cất tại ba nghĩa trang ở London. Ảnh: Bảo tàng Khảo cổ học London.

Nhiều người châu Âu mang đột biến gene của tổ tiên đã bảo vệ họ khỏi bệnh dịch hạch, các nhà khoa học đưa tin hôm 19/10 trên tạp chí Nature. Khi "cái chết đen" tấn công châu Âu vào năm 1348, nó đã giết chết hàng loạt người trên khắp lục địa, thúc đẩy sự chọn lọc tự nhiên mạnh mẽ nhất từ trước đến nay ở con người.

Theo nghiên cứu, một số biến thể di truyền nhất định giúp con người tăng khả năng sống sót sau bệnh dịch. Nhưng sự bảo vệ này có cái giá của nó: Những người thừa hưởng các đột biến kháng bệnh dịch hạch có nguy cơ cao bị rối loạn miễn dịch như bệnh Crohn.

Đột biến gene từ "cái chết đen"

Hendrik Poinar, nhà di truyền học tại Đại học McMaster ở Canada và là tác giả của nghiên cứu mới, cho biết: “Đây là những tác dụng phụ đáng tiếc của chọn lọc tự nhiên”.

Bệnh dịch hạch Yersinia Pestis do một loài vi khuẩn có ở bọ chét gây ra. Tuy bệnh dịch đã xuất hiện ở người từ hàng nghìn năm trước nhưng thời kỳ Trung cổ ở châu Âu là giai đoạn bùng phát mạnh mẽ nhất. Điều này khiến các nhà khoa học tự hỏi liệu "cái chết đen" đã làm thay đổi cấu trúc gene của châu Âu.

Tiến sĩ Poinar nói: “Chúng tôi mong đợi sẽ thấy một sự thay đổi lớn”.

Ý tưởng này có ý nghĩa tiến hóa cơ bản: Khi nhiều sinh vật chết đi, chúng sẽ truyền lại các đột biến để bảo vệ những sinh vật còn sống sót khỏi cái chết. Ví dụ, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, những con bướm đêm đã thay đổi từ màu lốm đốm sáng sang màu tối. Sự thay đổi đó được thúc đẩy bởi khói than phủ đen những tán cây, nơi những con bướm đêm nghỉ ngơi. Chúng có khả năng ẩn nấp khỏi các loài chim tốt hơn và sống sót để truyền lại gene của mình.

Anh huong cua 'cai chet den' van con trong con nguoi-Hinh-2

Nghệ sĩ người Italy Raphael và thợ khắc Marcantonio Raimondi đã tạo nên "Bệnh dịch" (Il Morbetto) vào năm 15 12 hoặc 1513. Nó ghi lại nỗi kinh hoàng của bệnh dịch hạch, đã tàn phá nước Italy trong "cái chết đen" và sau đó tái phát liên tục trong 300 năm sau đó. Ảnh: Phòng trưng bày nghệ thuật quốc gia Mỹ.

Tầm quan trọng của đột biến gene mới

Khi "cái chết đen" xảy ra, không có nhà sinh học tiến hóa nào ghi nhận tác động của nó. Vào những năm 1990, một số nhà khoa học đã tìm kiếm manh mối bằng cách nghiên cứu DNA của những người châu Âu còn sống. Đột biến ở một gene, được gọi là CCR5, có ở 10% người châu Âu nhưng hiếm ở những người khác. Năm 1998, các nhà nghiên cứu đề xuất rằng gene này có thể bảo vệ cơ thể khỏi "cái chết đen".

Nhưng nghiên cứu sau đó cho thấy không thể loại trừ khả năng đột biến CCR5 lây lan để phản ứng với căn bệnh khác vào một thời điểm khác trong lịch sử. Luis Barreiro, nhà di truyền học dân số tại Đại học Chicago và là tác giả của nghiên cứu mới, cho biết: “Đó là điều mà nhiều người nói đến nhưng rất khó để chứng minh”.

Thay vì nghiên cứu người sống, tiến sĩ Barreiro, tiến sĩ Poinar và các đồng nghiệp của họ đã kiểm tra DNA của những người sống cách đây nhiều thế kỷ, trích xuất vật liệu di truyền từ hài cốt được chôn cất tại ba nghĩa trang ở London. Họ tìm thấy các đoạn DNA trong 318 bộ xương sống từ năm 1000 đến năm 1500. Phần còn lại bao gồm 42 nạn nhân của " cái chết đen".

So sánh các xương trước và sau khi bệnh dịch xảy ra, các nhà khoa học nhận thấy sự khác biệt nổi bật trong DNA: Hàng trăm đột biến trong các gene liên quan đến khả năng miễn dịch trở nên phổ biến hơn sau đại dịch.

Sự thay đổi này tự nó không phải là bằng chứng rằng các đột biến mang lại một số lợi thế tiến hóa. Từ lâu, các nhà sinh vật học đã biết đột biến có thể trở nên phổ biến hơn trong một quần thể nhờ vào những biến động của lịch sử - quá trình được gọi là sự trôi dạt di truyền.

Đây là thách thức để xác định xem đột biến phổ biến xảy ra là do di truyền gene hay do chọn lọc tự nhiên. Một cách để phân biệt sự khác biệt là tốc độ: Trong những điều kiện khắc nghiệt, chọn lọc tự nhiên có thể làm cho đột biến lây lan nhanh hơn nhiều so với khả năng di truyền.

Để so sánh giữa chọn lọc tự nhiên và sự trôi dạt di truyền, tiến sĩ Berreiro và các đồng nghiệp của ông đã quay trở lại DNA của người London để có một cái nhìn khác. Họ đã tận dụng thực tế là các đoạn DNA lớn của chúng ta không chứa gene hoạt động. Các đột biến tấn công những vết rạn đó không có khả năng gây ra bất kỳ tác hại nào. Chúng cũng không có khả năng mang lại bất kỳ lợi ích nào. Chúng chỉ lây lan nhờ sự trôi dạt di truyền.

Tiến sĩ Barreiro và các đồng nghiệp của ông phát hiện ra rằng một số đột biến trung tính này trở nên phổ biến hơn sau "cái chết đen". Nhưng 35 đột biến trong gene miễn dịch lây lan nhanh hơn nhiều so với đột biến gene trung tính - nhanh đến mức chỉ có chọn lọc tự nhiên mới có thể tạo nên thành công của chúng.

Anh huong cua 'cai chet den' van con trong con nguoi-Hinh-3

Anh huong cua 'cai chet den' van con trong con nguoi-Hinh-4

Các nhà nghiên cứu đã trích xuất DNA từ hài cốt của những người được chôn cất trong các hố dịch hạch ở East Smithfield, được sử dụng để chôn cất hàng loạt vào năm 1348 và 1349. Ảnh: Bảo tàng Khảo cổ học London.

Đối với một thử nghiệm khác, các nhà khoa học lặp lại thí nghiệm của họ, lần này là ở Đan Mạch.

Họ tìm thấy DNA trong bộ xương của 198 người Đan Mạch sống từ năm 850 đến năm 1800. Các đột biến trong gene miễn dịch cũng nhanh chóng lây lan ở Đan Mạch sau "cái chết đen". Khi các nhà khoa học sắp xếp các đột biến từ các mẫu ở London và Đan Mạch, họ tìm thấy 4 đột biến đã lây lan trong cả hai quần thể. Bốn đột biến này lây lan nhanh chóng ở London và Đan Mạch đến nỗi chúng hẳn đã cung cấp một hàng rào bảo vệ ấn tượng chống lại bệnh dịch.

Các nhà nghiên cứu phát hiện việc mang hai phiên bản bảo vệ của gene có tên là ERAP2 chẳng hạn, khiến con người có khả năng sống sót sau "cái chết đen" cao hơn 40% - “tiến hóa có lợi lớn nhất từng được tìm thấy ở người” - tiến sĩ Barreiro nói.

David Enard, nhà sinh vật học tiến hóa tại Đại học Arizona, người không tham gia vào nghiên cứu mới, cho biết: “Nó thực sự gây sốc". Ông cho biết nghiên cứu đặc biệt hấp dẫn nhờ vào cách các nhà khoa học loại trừ sự trôi dạt di truyền. “Điều thực sự mang lại cho nghiên cứu này sức mạnh là sự liên quan của nó đến toàn bộ cách tiếp cận thiết kế so sánh cẩn thận này”, David Enard chia sẻ.

ERAP2 tạo ra một loại protein có liên quan đến phản ứng miễn dịch chống lại vi khuẩn và vi rút xâm nhập. Khi một tế bào miễn dịch nuốt phải mầm bệnh, nó sẽ xuất hiện các protein từ kẻ xâm lược trên bề mặt của nó. Chúng đóng vai trò như báo động cho phần còn lại của hệ thống miễn dịch. Công việc của ERAP2 là cắt bỏ các bit của protein lạ để hiển thị chúng.

Hàng tỷ người có một phiên bản của gene ERAP2 bị đột biến khiến các tế bào không thể tạo ra protein của nó. Nhưng những người có phiên bản gene này không bị tổn hại nhiều. Điều đó rất có thể là do con người có nhiều gene khác giúp hiện diện các protein lạ trong hệ thống miễn dịch.

Trong "cái chết đen", tiến sĩ Barreiro và các đồng nghiệp của ông nhận thấy, chọn lọc tự nhiên đã ưu ái cho phiên bản hoạt động của ERAP2. Để hiểu rõ hơn tại sao, họ đã trộn vi khuẩn Yersinia với các tế bào miễn dịch của những người có cả hai phiên bản của gene này.

Các nhà nghiên cứu phát hiện hai bản sao ERAP2 đang hoạt động cho phép các tế bào miễn dịch quét sạch vi khuẩn. Nếu không có nó, các tế bào sẽ hoạt động kém đi khá nhiều.

Nhưng phiên bản gene đó cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh Crohn, một chứng rối loạn trong đó hệ thống miễn dịch tấn công các vi khuẩn thân thiện trong đường ruột và gây ra tình trạng viêm nhiễm. Tiến sĩ Berreiro cho biết có thể ERAP2 đã làm quá tốt công việc của nó, gây ra tiếng chuông cảnh báo cho vi khuẩn có lợi cũng như có hại xung quanh. Các đột biến khác mà ông và các đồng nghiệp xác định được từ DNA cổ đại cũng liên quan đến các rối loạn miễn dịch.

Tiến sĩ Berreiro và các đồng nghiệp của ông đang tiếp tục nghiên cứu các gene trong quá trình tiến hóa của "cái chết đen", không chỉ để hiểu chương đó trong lịch sử mà còn hiểu chính các gene đó. Thực tế là chúng đã trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên mạnh mẽ như vậy rất có thể chúng rất quan trọng trong cuộc chiến chống lại bệnh tật - và có lẽ không chỉ là bệnh dịch.

Tiến sĩ Berreiro nói: “Trước đây nó rất quan trọng và rất có thể ngày nay nó sẽ càng quan trọng hơn".

Cuối cùng, “bệnh nhân số 0” trong đại dịch Cái chết Đen cũng lộ diện!

Theo một nghiên cứu của các chuyên gia, nghĩa trang tại Kyrgyzstan có số ca tử vong tăng vọt vào những năm 1300. Đây được cho là nơi có những "bệnh nhân số 0" đầu tiên trong đại dịch Cái chết Đen.

Cuoi cung, “benh nhan so 0” trong dai dich Cai chet Den cung lo dien!
Đại dịch Cái chết Đen (Black Death) là từ dùng để mô tả mức độ thảm khốc của trận đại dịch dịch hạch hoành hành tại nhiều nước trên thế giới vào giữa thế kỷ 14. Theo ước tính, từ năm 1346 - 1353, dịch bệnh nguy hiểm này đã cướp đi sinh mạng của 60% dân số châu Âu, Trung Đông và châu Phi. 

Giải mã được bí ẩn 700 năm về nguồn gốc Cái chết Đen

Cái chết Đen là dịch bệnh chết chóc nhất được ghi nhận trong lịch sử. Ước tính Cái chết Đen đã giết chết một nửa dân số châu Âu và Địa Trung Hải, vào khoảng 50 triệu người trong thế kỷ 14, từ 1346 đến 1353.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu tuyên bố đã tìm ra tổ tiên di truyền của Cái chết Đen, và nó vẫn còn lây bệnh cho hàng ngàn người mỗi năm. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Nature tháng trước (tháng 6/2022) đã đưa ra các bằng chứng sinh học xác định vị trí của Cái chết Đen là ở Trung Á, Kurgyzstan ngày nay.

Ngoài ra, chủng dịch hạch di truyền từ khi vực này "đã làm nảy sinh phần lớn các chủng [dịch hạch hiện đại] lây lan trong thế giới hôm nay", nhà sử học Phil Slavin ở đại học Stirling (Scotland), đồng tác giả nghiên cứu cho biết trên NPR.

DNA trong răng cổ đại tiết lộ lịch sử tiến hóa virus herpes

Chủng HSV-1 của virus herpes vốn được cho là đã xuất hiện ở châu Phi hơn 50.000 năm trước. Nhưng dữ liệu mới, công bố trên tạp chí Science Advances, chỉ ra rằng nó chỉ mới xuất hiện khoảng 5.000 năm trước, trong thời đại đồ đồng.

Virus herpes, hay còn gọi là bệnh mụn rộp, gồm hai chủng HSV-1 và HSV-2, gây ra các triệu chứng nhiễm trùng da, các vết loét hoặc phá hủy cấu trúc của tế bào ở mắt, lưỡi, cổ họng, môi, bộ phận sinh dục và các bộ phận khác trong cơ thể. Herpes có thể gây bệnh ở người, bất kể giới tính và tuổi tác, và có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, nhưng đặc biệt nguy hiểm ở trẻ sơ sinh. Virus này thường ẩn náu trong hệ thần kinh ở trạng thái không hoạt động, trước khi di chuyển vào máu và bùng phát thành vết loét. Ngày nay, HSV-1 đã lây nhiễm cho khoảng 2/3 dân số toàn cầu dưới 50 tuổi.
Răng là kho báu DNA cổ đại vì cấu trúc tinh thể của nó có khả năng bảo vệ các phân tử sinh học khỏi bị thoái hóa. Trong thập kỷ qua, các nhà khoa học đã sử dụng các công nghệ giải trình tự ngày càng chính xác để từ DNA tìm thấy trong răng mà tái tạo bộ gen của người và động vật từ xa xưa - trong đó lâu đời nhất là voi ma mút đã chết cách đây 1,6 triệu năm. Trong quá trình này, họ đã tìm ra nhiều vật liệu di truyền của vi khuẩn và virus được bảo tồn trong răng. Các răng đều có mạch máu ở gốc, vì vậy khi người hoặc động vật chết, răng trở thành kho lưu trữ bất kỳ mầm bệnh nào có trong máu tại thời điểm chết.
Năm 2013, các nhà khoa học đã sử dụng DNA chiết xuất từ răng để xác nhận rằng bệnh dịch hạch Justinian, tràn qua Địa Trung Hải và Bắc Âu vào thế kỷ thứ sáu, là đợt bùng phát lớn đầu tiên của vi khuẩn dịch hạch Yersinia pestis. Và vào tháng 6/2022, một nhóm các nhà nghiên cứu khác cho biết, chủng Yersinia pestis gây ra đại dịch Cái chết Đen - giết chết hơn 60% dân số một số vùng Âu-Á vào thế kỷ XIV - có thể đã phát triển ở Kyrgyzstan ngày nay, dựa trên cơ sở DNA trong răng được tìm thấy trong vùng đó.
Nghiên cứu DNA cổ đại cũng cho thấy lịch sử của các mầm bệnh ít gây chết người hơn, chẳng hạn như herpes. Năm 2016, nhà sinh học phân tử khảo cổ Christiana Scheib tại Đại học Tartu Estonia và các đồng nghiệp tình cờ phát hiện các chuỗi di truyền có vẻ khớp với HSV-1 khi đang tìm kiếm dấu vết của Yersinia pestis trong chiếc răng 600 năm tuổi của một thiếu niên.
Cho đến thời điểm đó, “chưa có DNA virus herpes cổ đại nào từng được công bố”, Scheib nói. Bộ gen herpes lâu đời nhất được ghi nhận đã được phân lập từ một người sống ở New York vào năm 1925. Khám phá này khiến nhóm Scheib tiếp tục tìm kiếm các dấu hiệu của bệnh herpes ở những bộ hài cốt khác.
Sau khi phân loại hàng chục hài cốt, các nhà nghiên cứu cuối cùng đã tìm thấy và trích xuất DNA virus herpes từ răng của ba người chết vì nhiễm trùng cấp tính, trong đó có một phụ nữ trẻ được chôn cất ở ngoại ô Cambridge, Vương quốc Anh, vào thế kỷ thứ sáu.
Bằng cách đánh giá các đột biến di truyền phát triển giữa bốn bộ gen cổ đại và so sánh chúng với các chủng HSV-1 hiện đại, nhóm nghiên cứu suy luận rằng tất cả chúng đều có một tổ tiên chung xuất hiện cách đây khoảng 5.000 năm. Trước đó, đã có các chủng herpes khác nhau lưu hành, nhưng 5.000 năm trước HSV-1 xuất hiện và lập tức chiếm ưu thế hoàn toàn. Trước nghiên cứu này, HSV-1,gây lở loét môi ở người, từng được cho là đã xuất hiện ở châu Phi cách đây hơn 50.000 năm.

Các nhà nghiên cứu tìm thấy DNA virus herpes gây bệnh lở loét và mụn rộp trong răng một phụ nữ sống vào thế kỷ 18.
Chưa rõ chính xác điều gì đã khiến cho HSV-1 lây nhiễm vượt trội so các phiên bản cũ. Nhưng theo Scheib, phân tích của họ cho thấy HSV-1 xuất hiện trong một giai đoạn di cư ồ ạt trong thời kỳ đồ đồng, và có thể virus đã di chuyển từ lục địa Âu Á đến các vùng thuộc châu Âu ngày nay theo cách này.
Và HSV-1 có thể đã lan rộng từ đó cho đến ngày nay do hành vi hôn môingày càng trở nên phổ biến. Hôn môi ra đời cách đây khoảng 3.500 năm trên tiểu lục địa Ấn Độ và có lẽ sau đó đã du nhập vào châu Âu trong các chiến dịch quân sự của Alexander Đại đế vào thế kỷ thứ tư. Herpes thường lây từ cha mẹ sang con cái khi tiếp xúc gần gũi, và hôn môi có thể đã tạo thành một con đường lây nhiễm từ người sang người nhanh hơn và trên diện rộng hơn.

Tin mới