Bí ẩn “đội quân hổ thần” huyền thoại trong lịch sử VN

(Kiến Thức) - Ngoài biệt tài biết nhiều ngoại ngữ, cuộc đời của danh tướng Trần Nhật Duật còn để lại những giai thoại rất ly kỳ, trong đó có chuyện về “đội binh hổ thần” giúp ông đánh giặc. 

Chuyện lạ của vị tiên đồng giáng sinh nơi hạ giới
Trần Nhật Duật là con trai thứ 6 của vua Trần Thái Tông, là em khác mẹ của vua Trần Thánh Tông và danh tướng Trần Quang Khải. Ông sinh tháng 4 năm Ất Mão (1255). Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết về sự ra đời của ông như sau: “Mùa hạ, tháng 4,… Hoàng tử thứ 6 Nhật Duật sinh. Trước đó, đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong [đạo sĩ] tâu vua:
- Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ [48 năm].
Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ "Chiêu Văn đồng tử", nét chữ rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn. Lớn lên, nét chữ mới mất đi. Đến năm [Nhật Duật] 48 tuổi, bị ốm hơn 1 tháng, các con ông làm chay, xin giảm tuổi thọ của mình để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói:
- Thượng đế xem sớ xong, cười bảo: "Sao hắn quyến luyến trần trục muốn ở lại lâu thế, nhưng các con hắn thực lòng hiếu thảo, cũng đáng cho. Thôi cho thêm hai kỷ nữa".
Thế rồi bệnh liền khỏi. Sau Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi, thế là được đủ 6 kỷ lẻ 5 năm”.
Thân mẫu của Trần Nhật Duật là Vũ Thị Vượng, còn gọi là Vượng Nương, quê ở làng Miễu, xã Mạt Lăng, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường (nay là huyện Nam Trực, Nam Định). Năm Kỷ Hợi (1239), Trần Thái Tông đi tuần thú qua vùng này, tình cờ nghe nói đến cô gái thôn quê hình dung yểu điệu, nhan sắc tuyệt trần, giỏi nghề canh cửi, chăm việc ruộng đồng, nổi tiếng cả vùng vừa đẹp người lại đẹp nết nên đã đưa nàng vào cung lập làm Cung phi thứ năm, hiệu là Vũ phi.
Khi Trần Nhật Duật ra đời, được mẹ hết lòng chăm sóc, nuôi dạy nên từ nhỏ đã nổi tiếng là hoàng tử “hiếu học và sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết”; lớn lên thì trở thành một người thông minh, tính tình nhã nhặn lại rất đa tài, đủ cả cầm kỳ thi họa, thích âm nhạc diễn xướng, đặc biệt giỏi tiếng các dân tộc thiểu số và tiếng lân bang.
Bi an “doi quan ho than” huyen thoai trong lich su Viet Nam
 Mẹ dạy con. Ảnh minh họa: vietcartoon.

Trong sách "Lịch triều hiến chương loại chí", tác giả Phan Huy Chú đã viết về Trần Nhật Duật như sau: “Ông là người nhã nhặn và độ lượng, vui buồn chẳng hề lộ ra trên nét mặt, được người đương thời khen là bậc uyên bác. Những văn thư của triều đình lúc bấy giờ đều do tay ông thảo ra tất cả. Ông lại thông thuộc tiếng nói của các giống người Phiên, và khi tiếp người Tống thì có thể ngồi nói chuyện cả ngày mà không cần đến người dịch. Sứ giả từ Chiêm Thành, từ Sách Mã Tích (một đảo quốc cổ nay thuộc Malaysia - TG) hay các giống người Man (ý nói các dân tộc thiểu số- TG) đến nước ta, ông đều có thể nói chuyện và tiếp đãi theo tục của họ. Vua Trần Nhân Tông thường nói rằng:

- Ông là hiện thân của các bộ tộc phiên di.

Ông là đấng thân vương quý hiếm, làm quan trải thờ bốn đời vua, ba lần lãnh chức đứng đầu các trấn lớn. Nhà ông không ngày nào mà lại không có cuộc hát xướng. Người ta ví ông với Quách Từ Nghi đời nhà Đường bên Trung Quốc vậy”.

Cũng nhờ tài am hiểu phong tục và nói được tiếng dân tộc thiểu số nên vào cuối năm Canh Thìn (1280), khi ấy Trần Nhật Duật mới ở tuổi 25 đã dẹp được cuộc nổi loạn mà không tốn đến một mũi tên, hòn đạn tại đạo Đà Giang thuộc vùng Tây Bắc của đất nước, khiến viên chúa đạo là Trịnh Giác Mật phải nể phục quy hàng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mật mời ngồi, Nhật Duật biết nói tiếng và hiểu phong tục các nước, cùng với Mật ăn bằng tay, uống bằng mũi. Người Man thấy vậy thích lắm. Khi Nhật Duật về quân doanh, Mật liền đem gia thuộc đến doanh xin đầu hàng. Mọi người thấy vậy đều kính phục, vui mừng, vì không hề mất một mũi tên mà vẫn dẹp yên được sự phản loạn ở Đà Giang”.

Đội quân hổ thần giúp Chiêu Văn vương phá giặc

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 năm Ất Dậu (1285) và lần thứ ba năm Mậu Tý (1288), Trần Nhật Duật đã góp công lớn, ông còn sử dụng đạo quân người Tống chạy sang quy phục, được ông dung nạp, thu nhận và toán quân đó đã khiến cho quân Nguyên hoảng sợ trong trận Hàm Tử Quan. Sau đó ông còn vâng lệnh vua đánh giặc Man ở sách A Lộc, đánh quân Chiêm ở phía Nam nên được triều đình phong làm Thái úy Quốc công, rồi làm Tá thanh Thái sư, tước Đại Vương. Đánh giá về ông, trong Đại Nam quốc sử diễn ca tóm lược như sau:

Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.

Có một câu chuyện kỳ lạ về Trần Nhật Duật đáng nhắc đến xảy ra trong thời điểm đầu của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2. Khi ấy, vào cuối năm Giáp Thân (1284) vua Nguyên Hốt Tất Liệt sai con trai là Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang xâm lược Đại Việt, chúng nói phao lên 80 vạn. Thế giặc rất mạnh, quân ta chống không nổi phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tránh những đòn mạnh nhất của kẻ thù đang lúc hung hăng.

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật được trao trọng trách chỉ huy một cánh quân lớn lập phòng tuyến sông Lô đánh chặn để cản bước tiến ồ ạt của giặc Nguyên. Tại trận chiến ở trại Thu Vật (nay thuộc Tuyên Quang) gặp thế bất lợi Trần Nhật Duật phải dẫn quân lui về Bạch Hạc (nay thuộc Phú Thọ). Quân giặc đuổi theo rất gấp, tình thế vô cùng nguy cấp. Đến vùng Phan Lương (nay thuộc làng Bạch Lưu, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc) thì bất ngờ có một đội quân từ trong núi Long Động đổ ra đánh vào sườn quân Nguyên.

Thấy cánh hữu của giặc gươm giáo lộn xộn, cờ xí nghiêng ngả, Trần Nhật Duật cho rằng quân hương dũng của thổ hào địa phương muốn lập công đánh giặc, ông liền quay binh lại hiệp lực. Giặc Nguyên hốt hoảng tưởng trúng phải kế mai phục của ta, lại không rõ binh lực của đối phương ra sao nên rất kinh hãi, bỏ chạy hỗn loạn. Quân ta thừa thắng đuổi theo, dồn địch xuống quá Bạch Hạc.

Sau trận đánh, Trần Nhật Duật khi thu quân cho đóng trại nghỉ ngơi. Ông không thấy đội hương binh kia bèn gọi một viên tuỳ tướng lại nói:

- Ngươi đến dãy núi kia tìm thủ lĩnh đội hương binh về đây gặp ta!.

Bi an “doi quan ho than” huyen thoai trong lich su Viet Nam-Hinh-2
 Quân Nguyên Mông sa vào trận địa phục binh. Ảnh: Vietcartoon.

Viên tướng tuân lệnh thúc ngựa phi đi; khi tới làng Bạch Lưu nằm dưới chân núi thì chứng kiến cảnh tượng vô cùng kỳ lạ, một đàn hổ đen đông tới mấy ngàn con lũ lượt nối đuôi nhau đi lên núi. Qúa kinh ngạc, viên tướng nọ vội quay đầu ngựa phóng về thuật lại toàn bộ sự việc cho chủ tướng. Trần Nhật Duật nghe xong thất kinh bèn cho mời một số phụ lão trong vùng đến hỏi. Có cụ già nói:

- Bẩm vương gia, đấy là thừa tướng Lữ Gia hiển linh hộ quốc chứ không có đội thổ hào dân binh nào cả. Còn hổ cũng không phải là hổ thực.

Tiếp đó ông lão kể rằng, xưa kia vào thời nhà Triệu, khi quân Hán tiến đánh, thừa tướng Lữ Gia vốn là người Việt, quê ở Châu Hoan (nay là Thanh Hoá) đã bỏ kinh đô Phiên Ngung chạy về lập căn cứ ở núi Long Động chống quân giặc. Sau đó vì thua trận mà mất, dân thương tiếc lập đền thờ tôn làm thần núi Long Động, ông thường hiển linh giúp đời.

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cho là chuyện lạ, sai người ghi chép lại. Đến khi thắng giặc Nguyên Mông, ông cho sửa sang, tôn tạo lại đền miếu thờ Lữ Gia và sai người sưu tầm, viết lại thần tích, thu lượm các truyện truyền kỳ có liên quan để lưu truyền cho đời sau.

Số phận những kẻ bán nước thời Trần

Trần Di Ái là chú vua Trần Thánh Tông (em trai vua Thái Tông). Năm 1281, vua Nguyên đòi vua Trần Nhân Tông sang chầu, vua Trần lấy cớ khước từ và cử Trần Di Ái là chú sang thay mặt. Hốt Tất Liệt bèn nhân cớ phong Di Ái làm An Nam quốc vương. Hắn gửi thư cho vua Trần: “Ngươi cáo bệnh không vào chầu, nay cho người được nghỉ để thuốc thang điều dưỡng. Ta lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm quốc vương An Nam cai quản dân chúng”.

Hốt Tất Liệt sai Bột Nham Thiết Mộc Nhi đem 1.000 quân tháp tùng Trần Di Ái về làm vua nước Nam. Nhưng khi về đến biên giới thì quân hộ tống bị quân Trần đánh cho bán sống bán chết bỏ chạy. Trần Di Ái và bộ sậu bị bắt về. Vua Trần tha cho tội chết, nhưng bắt làm lính hầu ở phủ Thiên Trường, suốt đời nhục nhã không dám ngẩng mặt lên.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Trần Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng Trần Thái Tông. Là người thông minh, giỏi văn chương, thuở còn trẻ đã có ý tranh giành ngôi vua với Thái tử Hoảng. Qua lái buôn ở Vân Đồn, Trần Ích Tắc đã gửi mật thư thông đồng với giặc, nhưng triều đình không biết. Năm 1285, khi Thoát Hoan xâm nhập bờ cõi, ông ta còn được cử làm đại tướng cầm quân lên trấn giữ miền Đà Giang. Nhân cơ hội đó, Trần Ích Tắc đưa cả vợ con chạy sang hàng giặc và cũng được vua Nguyên phong cho làm An Nam quốc vương. Nhưng quân Nguyên thua chạy, Trần Ích Tắc sống lưu vong nơi đất Bắc cho đến chết. Nhà Trần gạch tên Trần Ích Tắc ra khỏi dòng họ và gọi một cách khinh bỉ là Ả Trần, coi như một mụ đàn bà.

Trần Kiện là con Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, cũng là người có tài, được phong tước Chương Hiến Hầu và được Thượng tướng Trần Quang Khải gả con gái cho. Năm 1284, nhà Nguyên sai Toa Đô đánh Chiêm Thành. Trần Kiện được cử thay cha là Trần Quốc Khang cầm quân chặn giặc ở Thanh Hóa. Nhưng sợ hãi trước thế giặc mạnh, Trần Kiện cùng bọn tay chân là Lê Trắc đã đem cả một vạn quân hàng giặc, làm cho mặt trận phía Nam có nguy cơ bị vỡ. Vua Trần phải cử Thượng tướng Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật đem quân vào cứu ứng. 

Trần Kiện theo Toa Đô về gặp Thoát Hoan, được trọng thưởng. Thoát Hoan rất mừng cho viên tướng Minh Lý Tịch Ban đưa bọn Trần Kiện và con trai Trần Ích Tắc là Nghĩa Quốc Hầu cùng bọn tôn thất phản bội khác về Yên Kinh. Đến ải Chi Lăng, chúng bị quân ta chặn đánh. Trần Kiện bị gia tướng của Trần Hưng Đạo là Nguyễn Địa Lô bắn chết trên lưng ngựa. Lê Trắc ôm xác chủ chạy tiếp đến Khâu Ôn cùng phải chôn vùi xác Trần Kiện để chạy tháo thân.

Ngoài ra, còn có Trần Văn Lộng là cháu nội Thái sư Trần Thủ Độ cũng là kẻ phản bội. Trần Văn Lộng được cử làm tướng cầm quân phòng vệ vùng Tam Đái. Năm 1284, quân Thoát Hoan tấn công, Văn Lộng đem cả gia quyến đầu hàng. Trần Văn Lộng được Thoát Hoan phong cho chức tước, theo quân thù đi đánh nhau với quân Trần. Khi quân Nguyên thất bại, Lộng chạy được sang Trung Quốc, làm quan cho nhà Nguyên và chết ở quê người.

Số phận của bọn bán nước xưa nay đều chẳng có gì tốt đẹp cả. Không những thế tiếng xấu còn mãi muôn thuở không rửa sạch được.

Người chém tướng giặc Phạm Nhan là ai?

Phạm Nhan, một trong những tướng lĩnh đầu sỏ của quân Nguyên Mông trong lần xâm lược Đại Việt lần thứ 3 bị bắt và chém đầu. Người có công bắt Phạm Nhan lại là một phụ nữ.

Những đạo quân Trung Quốc dưới trướng người Việt trong lịch sử

(Kienthuc.net.vn) - Vì những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử, nhiều đạo quân Trung Quốc đã dạt sang Việt Nam và trở thành đồng minh của người Việt.

Đạo quân Nam Tống trong lòng nhà Trần

Vào kỷ thứ 13, người Mông Cổ nổi lên như một thế lực quân sự cực kỳ hùng mạnh, trở thành mối đe dọa cho tất cả các quốc gia ở khu vực châu Á. Trước sự tấn công của Mông Cổ, triều Nam Tống đang suy yếu của Trung Quốc không thể chống đỡ nổi và dần dần tan vỡ.

Năm 1274, một nhóm bại quân Tống với 30 thuyền lớn cùng hàng nghìn binh lính và vợ con đã tháo chạy sang đất Đại Việt qua đường biển và xin hàng phục nhà Trần. Do cùng chung kẻ thù Mông Cổ, tất cả những người Tống này đều được vua Trần Thánh Tông thu nhận và đối xử tử tế.

Năm 1279, người Mông Cổ hoàn thành cuộc xâm chiếm Nam Tống, chính thức đặt sự cai trị của nhà Nguyên trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Từ thời điểm này, Hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt.

Sau một vài năm căng thẳng về mặt ngoại giao với những xung đột quân sự lẻ tẻ, nhà Nguyên chính thức phát động cuộc xâm lược Đại Việt đầu năm 1285. Cuộc chiến kéo dài đến tháng 6/1285 với kết cục thảm bại dành cho quân Nguyên – Mông.

Trong cuộc chiến này, đội quân lưu vong của người Tống đóng góp một phần công sức cho chiến thắng của quân nhà Trần. Dưới sự lãnh đạo của danh tướng Trần Nhật Duật, những cựu binh của nước Tống đã đối mặt với quân Nguyên – Mông trong màu cờ và quân phục của Nam Tống trong các trận quan trọng gần Thăng Long. Điều này khiến các tướng lĩnh và binh lính Mông Cổ ngạc nhiên và kinh hãi vì tưởng nhà Tống đã đội mồ sống lại.

Có thể nói, sự xuất hiện của người Tống trong cuộc chiến chính là thứ vũ khí uy hiếp tinh thần cực mạnh cùa nhà Trần trước kẻ thù Mông Cổ.

Thiên Địa Hội của người Hoa “phản Pháp phục Nam”

Thiên Địa Hội là một hội kín của người Trung Quốc hình thành vào thời Khang Hy của nhà Thanh với mục đích khôi phục lại giang sơn của nhà Đại Minh, đánh đuổi quân Mãn Thanh ngoại tộc. Các chi nhánh của hội này đã có mặt ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 17.

Sau chiến thắng trước quân Thanh năm 1789, Hoàng đế Quang Trung đã thu nạp một số đầu đảng của Thiên Địa Hội, cung cấp vũ khí và lương thảo để họ quay về đánh phá vùng ven biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang… nhằm làm suy yếu nhà Thanh và đòi lại vùng đất Lưỡng Quảng.

Hoạt động của Thiên Địa Hội khiến các đội thương thuyền của triều đình bị tê liệt, nhưng quan lại nhà Thanh không dám làm gì vì thanh thế của vua Quang Trung quá lớn….

Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, Thiên Địa Hội hoạt động mạnh mẽ ở Nam kỳ, nơi có nhiều Hoa Kiều cư ngụ. Do lúc này lợi ích gắn bó với Việt Nam, chủ trương “phản Thanh phục Minh” được các lãnh đạo Thiên Địa Hội đổi thành “phản Pháp phục Nam”.

Các hoạt động chính trong Thiên Địa Hội là tuyên truyền đạo giáo, luyện tập võ nghệ, tích lũy vũ khí lương thảo để tiến hành nổi dậy. Hội kín này hoạt động mạnh ở các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long... thu hút cả người Việt tham gia.

Thiên Địa Hội đã làm vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh nổi sóng với các cuộc khởi nghĩa: Khởi nghĩa của Đoàn Văn Cự, Phan Xích Long; vụ tấn công tiêu diệt tri phủ Trần Bá Hựu; đánh Khám Lớn Sài Gòn để giải cứu Phan Xích Long cùng các nghĩa sĩ…

Tuy nhiên, với vũ khí thô sơ và niềm tin có phần mê tín dị đoan vào các loại bùa chú, các cuộc đấu tranh của Thiên Địa hội đều bị thực dân pháp đàn áp nhanh chóng.

Nhà văn Sơn Nam bình luận: “Thực dân Pháp không ngờ Thiên Địa Hội vốn là những nhóm lẻ tẻ ở địa phương lại được chỉ huy khá thống nhất và cuộc khởi nghĩa khá đồng loạt, như để hỗ trợ cho nhau. Những người tham dự khởi nghĩa đều có tinh thần chiến đấu rất cao, họ tin vào bùa phép, tin rằng sắp đổi đời, tận thế, động đất, núi lở thành sông, bệnh dịch xảy ra, người chết không còn ai chôn, ai đeo bùa thì sống”.

Đội quân Cờ đen khiến quân Pháp bạt vía

Quân Cờ đen là một nhóm cướp có thành phần xuất thân từ quân đội người dân tộc Tráng ở tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Thủ lĩnh của đạo quân này là Lưu Vĩnh Phúc, thường lấy lá cờ màu đen làm cờ hiệu.

Do sự càn quét gắt gao của nhà Thanh, vào năm 1865 Lưu Vĩnh Phúc đã dẫn 200 quân rời khỏi địa bàn cũ để vượt biên giới vào Việt Nam. Họ vừa di chuyển vừa cướp bóc và tuyển thêm quân từ các toán thổ phỉ khác mà không gặp phải trở ngại gì. Khi đến gần Sơn Tây, quân Cờ đen dừng lại lập doanh trại, quân số khi đó đã lên tới 500 người.

Các bộ tộc Mông ở khu vực xem quân Cờ đen là một sự đe dọa nên đã tổ chức một cuộc tấn công. Quân Cờ đen phục kích và đánh bại cuộc tấn công của họ, giết chết một thủ lĩnh người Mông.

Viên thủ lĩnh này vốn là kẻ chống đối chính quyền nhà Nguyễn. Nhân cơ hội này, triều đình chính thức ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức vị Cửu phẩm bách hộ để mượn tay quân Cờ đen bình định vùng đất bất ổn này.

Được sự bảo trợ của nhà Nguyễn, quân cờ đen gia tăng lực lượng nhanh chóng và trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở vùng Tây Bắc.

Quân Cờ đen giết chết Francis Garnier tại Cầu Giấy.
Quân Cờ đen giết chết Francis Garnier tại Cầu Giấy.

Tin mới