Biết gì về chế độ nô lệ một thời ở Mỹ?

(VietnamDaily) - Năm 1619, những nô lệ da màu đầu tiên đặt chân đến lãnh thổ ngày nay là Mỹ. Sau đó, số nô lệ ở Mỹ tăng dần theo từng năm. Sau hơn 200 năm tồn tại, Mỹ chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ vào ngày 18/12/1865.

Biet gi ve che do no le mot thoi o My?
Chế độ nô lệ ở Mỹ bắt đầu vào tháng 8/1619. Khi ấy, một con tàu hải tặc có tên Sư tử Trắng cập bến ở Point Comfort, nằm gần vùng đất ngày nay là Hampton, bang Virginia, Mỹ.  
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-2
 Khi ấy, con tàu Sư tử Trắng thực hiện đổi hơn 20 nô lệ da màu để lấy lương thực. Những người da màu này bị cướp từ một tàu chở nô lệ của Tây Ban Nha, đi từ châu Phi vượt qua Đại Tây Dương để đến Tân Thế giới.
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-3
 Vụ trao đổi nô lệ trên diễn ra ở đất thuộc địa Anh - vùng đất sau đó đã tuyên bố độc lập rồi trở thành nước Mỹ. Theo đó, đây là sự kiện khởi đầu chế độ nô lệ ở khu định cư Jamestown, hiện là bang Virginia của Mỹ. 
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-4
 Gần 100 năm sau, chế độ nô lệ ở Mỹ phát triển mạnh. Theo nghiên cứu, vào năm 1725, gần 42.000 nô lệ người châu Phi được chuyển đến Chesapeake, Virginia. 
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-5
 50 năm sau, số nô lệ tại Mỹ tăng gần gấp 3 lần, với khoảng 127.200 người. Vào năm 1860, số nô lệ gốc Phi tại Mỹ lên đến con số 3,9 triệu người.
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-6
Mỹ chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ vào ngày 18/12/1865. Điều này được thực hiện nhờ công lớn của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln. 
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-7
 Cụ thể, sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ vào năm 1861, Tổng thống Lincoln được biết đến là người phản đối chế độ nô lệ. 
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-8
Vào ngày 1/1/1863, Tổng thống Lincoln chính thức đưa ra Tuyên ngôn giải phóng nô lệ, kêu gọi quân đội liên bang giải phóng toàn bộ nô lệ ở các bang nổi dậy. Nhờ vậy, khoảng 3 triệu nô lệ được tuyên bố là được tự do mãi mãi.  
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-9
 Về sau, đảng Cộng hòa trình Tu chính án thứ 13 lên Quốc hội. Đến tháng 4/1864, 2/3 số nghị sĩ ở Thượng viện đã thông qua sửa đổi hiến pháp này. Thế nhưng phải tới tháng 1/1865, tu chính án thứ 13 mới được thông qua.
Biet gi ve che do no le mot thoi o My?-Hinh-10
 Ngày 2/12/1865, Alabama trở thành bang thứ 27 ở Mỹ phê chuẩn Tu chính án 13. Điều này đáp ứng điều kiện tất yếu là 3/4 số bang thông qua sửa đổi để nó trở thành luật. Vì vậy, ngày 18/12/1865, Tu chính án thứ 13 chính thức được phê chuẩn và chế độ nô lệ ở Mỹ được bãi bỏ.

Mời độc giả xem video: Tổng thống Mỹ đề cử Bộ trưởng Quốc phòng mới. Nguồn: VTC1.

Cuộc sống tủi nhục như nô lệ của Thành Cát Tư Hãn

(VietnamDaily) - Là một trong những danh tướng tài ba nhất lịch sử nhân loại, ít ai biết rằng Thành Cát Tư Hãn có một tuổi thơ "dữ dội". Trong số này nổi bật là việc Thành Cát Tư Hãn từng bị bắt và sống khổ cực như nô lệ.

Cuc soc: Cuoc song tui nhuc nhu no le cua Thanh Cat Tu Han
 Thành Cát Tư Hãn là vị hoàng đế sáng lập đế chế Mông Cổ hùng mạnh một thời. Ban đầu, vị danh tướng xuất chúng này được đặt tên là Thiết Mộc Chân (Temujin). Cái tên này có nghĩa là “sắt thép” hoặc “thợ rèn”.

Sự xuất hiện và biến mất của xe kéo tay thời Pháp thuộc

Lúc đầu, việc khai thác loại phương tiện này được dành độc quyền cho những người có “máu mặt”, song tại Hà Nội, việc độc quyền này bị bãi bỏ từ ngày 31/12/1890.

Theo các tư liệu nhà nghiên cứu Lê Nguyễn nêu trong sách Nhà Nguyễn những vấn đề lịch sử (NXB Công an nhân dân, 2018), xe kéo xuất hiện lần đầu tiên xuất hiện tại Nhật vào cuối thập niên 1860 như một phương tiện tự chế cho những phú ông không còn đủ sức lực đi bằng chính đôi chân của mình.

Dấu ấn thời Pháp thuộc

Từ cái nôi đó, nó nhanh chóng có mặt tại các nước Trung Quốc, Ấn Độ… và du nhập vào Việt Nam vào những năm 1880. Tại đây, xe kéo tên tiếng Anh là rickshaw được thực dân Pháp chuyển ngữ gọi thành pousse - pousse. Kể từ đây, Hà Nội và các tỉnh phụ cận hình thành một đội ngũ những người công nhân được người Việt gọi là phu kéo xe, còn thực dân Pháp gọi là coulies - pousse.

Su xuat hien va bien mat cua xe keo tay thoi Phap thuoc

Phu xe người Việt kéo một người lính Pháp, khoảng những năm đầu thế kỷ 20. Ảnh tư liệu


Có tư liệu cho rằng việc nhập xe kéo vào Việt Nam là sáng kiến của một viên chức Pháp tên là Boannal, sau là Thống sứ Bắc kỳ (1886-1887). Lúc đầu, việc khai thác loại phương tiện này được dành độc quyền cho những người có “máu mặt”, song tại Hà Nội, việc độc quyền này bị bãi bỏ từ ngày 31/12/1890.

Cũng từ ấy, người ta ít thấy nhưng chiếc xe tồi tàn, những bác phu xe ăn mặc nhếch nhác. Thay vào đó, là những chiếc xe mới tên là Les Tonkinois, cao ráo, bánh sơn đỏ, thùng xe sơn xanh, có một ô sơn trắng để kẻ tên và số đăng ký màu đỏ. Những nhà giàu có sắm hẳn một chiếc xe kéo, nuôi luôn người phu xe trong nhà để điều động mỗi khi cần đi đâu.

Tại Nam Kỳ, xe kéo xuất hiện muộn hơn sau 5 năm. Trong bức thư đề ngày 20/1/1888, một người tên Fabre xin với viên Đốc lý Sài Gòn (thị trưởng) và Hội đồng thành phố cho được khai thác xe kéo tại thành phố. Bức thư cũng cho biết tại Chợ Lớn, một Hoa kiều vừa được viên Đốc lý cho phép khai thác loại xe mới mẻ này. Tháng 3/1888, Hội đồng thành phố quy định giá một cuốc xe là 5 xu, mỗi giờ chạy là 12 xu. Đến tháng 8/1892, một người Nhật tên Tokamath lại được khai thác độc quyền xe kéo trong 4 năm.

Su xuat hien va bien mat cua xe keo tay thoi Phap thuoc-Hinh-2

Tranh đả kích do Nguyễn Ái quốc vẽ, đăng báo Le Paria (tháng 8.1922). Ảnh tư liệu.

Từ đây xe kéo trở thành phương tiện kiếm sống cho nhiều người Việt được xếp vào thành phần coulie (cu-li, phu, người lao động không có tay nghề). Họ cũng bị coi là một trong những giai tầng thấp kém nhất trong xứ thuộc địa và từ cu-li xe kéo khiến nhiều người liên tưởng đến sự dốt nát, nghèo nàn, cùng cực trong xã hội.

Đầu thập niên 1910 những “xe kéo tự động” (pousse – pousse automobiles) ra đời nhưng vẫn không làm mất đi hình ảnh chiếc xe kéo chạy bằng sức người trên đường phố Hà Nội và Sài Gòn. Những năm đầu thập niên 1930, xe xích lô ra đời, nhưng vẫn không thay thế được xe kéo. Lúc này xuất hiện cụm từ “xích lô - xe kéo” để chỉ những người dân ít học, đem mồ hôi đổi lấy miếng cơm. Nhưng năm 1940 trở đi, xe kéo ít nhiều bị mai một song vẫn tồn tại.

Bị loại khỏi đời sống xã hội

Sau Cách mạng tháng Tám, bằng các chính sách tiến bộ, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã loại bỏ và chấm dứt xe kéo, nghề phu xe, dấu ấn của một thời nô lệ. Theo các tài liệu lưu trữ đang lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước quá trình loại bỏ này diễn ra như sau:

Su xuat hien va bien mat cua xe keo tay thoi Phap thuoc-Hinh-3

Câu chuyện cuộc “kỳ ngộ” của hai cảnh đời bất hạnh: anh phu kéo xe (ngựa người) và hình ảnh cô gái ăn sương (người ngựa) trong tác phẩm "Người ngựa, ngựa người", của nhà văn Nguyễn Công Hoan đã in đậm trong tâm trí nhiều người.

Ngày 29/4/1946, Bộ Xã hội đã có Tờ trình Chủ tịch Chính phủ Việt Nam đề cập đến việc phải bỏ nghề phu xe. Văn bản này viết: “Nhiều nước trong Đông Á này, trong đó có Việt Nam ta có cái nghề “người làm ngựa kéo người”, tôi muốn nói cái nghề kéo xe tay. Tai hại của nghề đó về phương diện xã hội và chính trị, không phải là nhỏ, nó đã gây nên cả một chế độ bóc lột tàn ác và dã man giữa chủ, cai và phu xe. Nó chứng tỏ rõ rệt sự phân cấp giữa đồng bào, sự bất bình đẳng giữa người ngồi và người kéo. Hạ mình xuống làm thân bò, thân ngựa người kéo xe cảm thấy tất cả sự đê hèn của mình, không còn biết tự trọng, và nhiều khi làm những việc tổn hại đến luân lý.

Nghề kéo xe lại là một nghề rất vất vả khiến cho người phu xe dễ trở nên là nạn nhân của vi trùng lao. Sau hết về phương diện quốc tế, cái cảnh xe kéo rất có tổn hại cho quốc thể nhất là khi người ngồi trên xe lại là người ngoại quốc.

Bộ Xã hội thiết tưởng cần phải bỏ nghề ấy đi, càng chóng ngày nào càng hay”…

Căn cứ vào đề nghị của Bộ Xã hội, ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 84 quy định: “Bắt đầu từ ngày 01 tháng Giêng năm 1948, tại tất cả các thị xã và các tỉnh lị kể cả ngoại ô trong toàn cõi Việt Nam, cấm các xe kéo (xe tay), bất luận là của chủ cho thuê hay của tư gia, không được chạy nữa. Ngoài các thành phố và tỉnh lị trên đây sẽ thi hành kể từ ngày 01 tháng Giêng năm 1949”.

Su xuat hien va bien mat cua xe keo tay thoi Phap thuoc-Hinh-4

Sắc lệnh số 84 ngày 29/5/1946. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III

Tuy nhiên, vì tình thế kháng chiến và tình hình giao thông vận tải đương thời, Bộ Nội vụ nhận thấy hầu hết chủ xe kéo chưa có phương tiện để thay thế những xe kéo tay trước ngày 01/01/1948 nên Bộ Nội vụ đã đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh xét ký gia hạn thêm một năm và cho phép các xe kéo được lưu hành tới 01/01/1949 ở thành phố, tỉnh lị, ngoại ô và từ ngày 1/1/1950 ở thành phố và tỉnh lị.

Ngày 14/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 176 - SL gia hạn thêm một năm hạn cấm chạy xe kéo, xe tay. Việc gia hạn thêm thời gian một năm này, nhằm mục đích cho những tư nhân có xe kéo có đủ thời giờ để chuẩn bị tuân hành và giúp cho giao thông vận tải trong nước hiện thời được thêm phần thuận lợi.

Đây là những văn bản quan trọng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có ý nghĩa chấm dứt hoàn toàn phương tiện "bóc lột sức lao động con người" sau một thời gian dài tồn tại ở Việt Nam.