Chủ tịch VUSTA Phan Xuân Dũng tham dự Đại hội Đảng lần thứ XIII

TSKH Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và TS Phạm Quang Thao, Phó Chủ tịch VUSTA tham dự Đại hội Đảng lần thứ XIII, diễn ra sáng nay (25/01/2021).

Chu tich VUSTA Phan Xuan Dung tham du Dai hoi Dang lan thu XIII
  TSKH Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
Theo thông cáo báo chí của Ban tổ chức Đại hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1-2/2.
Đại hội Đảng lần thứ XIII có 1.587 đại biểu tham dự, đông nhất trong 13 kỳ Đại hội. Trong đó, đại biểu đương nhiên chiếm 12,4%; đại biểu chỉ định chiếm 0,95%; đại biểu nữ chiếm 13,99%; đại biểu dân tộc thiểu số chiếm 11,03%. Về độ tuổi, đại biểu cao tuổi nhất 77 tuổi, đại biểu thấp tuổi nhất là 34 tuổi.
Ngày 25/12, phiên họp trù bị Đại hội lần thứ XIII của Đảng diễn ra tại Hội trường lớn Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình. Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) Phan Xuân Dũng và Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Quang Thao tham dự từ phiên họp này.
Với phương châm "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển", Đại hội XIII tiến hành thảo luận, thông qua: Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng; Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2021 - 2025; Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (trình Đại hội XIII).

Trước đó, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam lần VIII (nhiệm kỳ 2020 - 2025) ngày 25/12, với kết quả 192/192 ủy viên Hội đồng Trung ương biểu quyết tán thành, Liên hiệp các Hội KH & KT Việt Nam chính thức thông qua Nghị quyết phê chuẩn danh sách Đoàn chủ tịch gồm 27 thành viên.

TSKH Phan Xuân Dũng được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Trung ương khóa VIII; ông Phạm Quang Thao và Nguyễn Hồng Diên là Phó chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, ông Nguyễn Quyết Chiến là Tổng thư ký, Liên hiệp Hội Việt Nam khóa VIII; 9 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp Hội Việt Nam và ông Phạm Quang Thao là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp Hội Việt Nam.

TSKH Phan Xuân Dũng, SN 1960, quê quán tại xã Đại Lộc (huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Trước khi giữ Chủ tịch  Liên hiệp các Hội KH & KT Việt Nam, ông là Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) của Quốc hội. Ngoài ra, ông từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng và có nhiều đóng góp cho sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước.

- Trước 2006: Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (2001); Phó Vụ trưởng Ban Khoa giáo Trung ương

- 2006-2010: Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa X (4/2006); Đại biểu Quốc hội khóa XII, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (7/2007), Ủy viên Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (5/2010)

- 1/2011: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI

- 7/2011 - 7/2016: Đại biểu Quốc hội khóa XIII. Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa XIII

- 1/2016: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII

- 22/7/2016: Đại biểu Quốc hội khóa XIV. Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa XIV.

TS Phạm Quang Thao, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương được chỉ định giữ chức Ủy viên Đảng đoàn (nhiệm kỳ 2015 - 2020), được bầu vào Hội đồng Trung ương và giữ chức Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam khóa VII (từ tháng 9/2020 - 12/2020). 

Liên hiệp Hội Việt Nam: Chặng đường 35 năm xây dựng và phát triển

Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã phát triển không ngừng và từng bước mở rộng phạm vị hoạt động, tích cực triển khai nhiều hoạt động chuyên môn phù hợp với các lĩnh vực hoạt động của các hội chuyên ngành.

GS.TSKH Đặng Vũ Minh – Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam phát biểu khai mạc

GS.TSKH Đặng Vũ Minh – Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam phát biểu khai mạc

Báo cáo đề dẫn tại hội thảo, TS Phạm Văn Tân – Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp Hội Việt Nam cho biết, ngay từ khi mới thành lập năm 1983, từ 15 hội thành viên trải qua các năm và vươn mình lớn dậy đến nay Liên hiệp Hội đã có 142 hội thành viên, trong đó có 63 Liên hiệp Hội ở các tỉnh, thành phố và 86 hội ngành toàn quốc hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam: 35 năm một chặng đường

Ngày 26/3/1983, tại Hà Nội, Ủy ban liên lạc lâm thời các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đại biểu 15 hội thành viên tiến hành Đại hội thành lập Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

GS. VS. Trần Đại Nghĩa, chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam (1983-1988)

GS. VS. Trần Đại Nghĩa, chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam (1983-1988) 

Tại đại hội, các đại biểu đã thông qua Điều lệ Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, đứng dầu là Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa làm chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam. Sau 4 tháng thành lập, đến ngày 29/7/1983, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) ra Quyết định số 121/HĐBT về việc cho phép Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chính thức thành lập và hoạt động.
Sự kiện ra đời tổ chức Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) năm 1983 đã gây được tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước, lần đầu tiên có một tổ chức mang tính chính trị - xã hội – nghề nghiệp của giới trí thức khoa học và công nghệ, với sứ mệnh đoàn kết, tập hợp trí thức, tổ chức và thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ hướng tới mục tiêu phát triển đất nước. Đại hội thành lập Liên hiệp hội Việt Nam cũng đã kết thúc giai đoạn trù bị lâu dài 18 năm kể từ khi Ủy ban liên lạc lâm thời các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam bắt đầu hoạt động.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tham dự đại hội thành lập Liên hiệp Hội Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tham dự đại hội thành lập Liên hiệp Hội Việt Nam 

Trong nhiệm kỳ I (1983-1988), Liên hiệp Hội Việt Nam tập trung công tác phát triển tổ chức, hoàn thiện cơ chế quản lý, tổ chức các hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ, triển khai các dự án đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống phục vụ mục tiêu phát triển cộng đồng, phát triển xã hội. Với đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước, trong đó vị trí và vai trò của Liên hiệp hội và các hội khoa học- kỹ thuật càng ngày được khẳng định. Ngày 11/4/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 35-CT/TW "Về củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam". Bản Chỉ thị nêu rõ: "Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là tổ chức xã hội tự nguyện của tất cả các hội khoa học kỹ thuật của người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước... được tổ chức và hoạt động theo cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương".
Ngày 12/5/1988, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của trên 100 đại biểu đại diện 23 hội thành viên. Đại hội thông qua Báo cáo của Ban Chấp hành, Điều lệ (bổ sung, sửa đổi), Quy chế tổ chức và hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Đại hội bầu ra 49 ủy viên Hội đồng Trung ương. Hội đồng Trung ương bầu Đoàn Chủ tịch gồm 9 ủy viên do Giáo Sư, Tiến sĩ Hà Học Trạc làm Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam.
Sau Đại hội II, số lượng các hội thành viên của Liên hiệp hội tăng lên gần gấp đôi (từ 23 đến 42 hội). Hàng năm có nhiều hội ngành mới được thành lập. Sự phát triển mạnh mẽ của Liên hiệp hội và các hội khoa học và kỹ thuật thành viên đặt ra yêu cầu cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Ngày 17/11/1990, Đảng ủy khối cơ quan Khoa giáo Trung ương ra Quyết định số 405/QĐ-ĐUK thành lập Đảng bộ Cơ quan Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam với 4 chi bộ và 36 đảng viên. Ngày 20/2/1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 436-NS/TW thành lập Đảng đoàn Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, do Giáo sư Hà Học Trạc, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam, làm Bí thư.
Trong nhiệm kỳ II, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng được chú trọng đẩy mạnh. Việc thực hiện chức năng hỗ trợ đưa tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất và đời sống đã đạt được những thành tựu mới. Tư vấn, phản biện và giám định xã hội đã thể hiện được vai trò tích cực của Liên hiệp Hội Việt Nam. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, các nhà khoa học đã tích cực đóng góp ý kiến cho Cương lĩnh chính trị của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Ngày 27-28/9/1993, tại Hà Nội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của 184 đại biểu đại diện 42 hội thành viên (34 hội khoa học và kỹ thuật ngành trung ương và 8 liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố). Đại hội bầu ra Hội đồng Trung ương khóa III gồm 95 ủy viên. Hội đồng Trung ương khóa III tiếp tục suy tôn Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa làm Chủ tịch danh dự, bầu Đoàn chủ tịch gồm 11 ủy viên với Giáo sư, Tiến sĩ Hà Học Trạc làm Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ III, Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển về xây dựng tổ chức, tập hợp và đoàn kết trí thức, điều hòa và phối hợp hoạt động của các hội thành viên. Hội đồng Trung ương có những thay đổi cả về số lượng và thành phần. Năm 1998, Hội đồng Trung ương có 130 ủy viên, đại diện cho 40 hội khoa học và kỹ thuật ngành ở Trung ương, 19 trong số 23 Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố, Cơ quan thường trực Liên hiệp hội trung ương và một số nhà khoa học. Cũng trong nhiệm kỳ III, lần đầu tiên mạng lưới các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phát triển ra cả nước ngoài. Tiêu biểu là việc thành lập Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tại Liên Bang Nga (12/1993). Các hội thành viên phát triển theo hướng tổ chức các hội chuyên ngành hoặc phân hội mới trong từng hội và thành lập thêm các chi hội địa phương. Một số Hội thành viên đã đạt được những thành tích đáng khích lệ như Hội Luật gia Việt Nam được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Hội Những người làm vườn Việt Nam, Hội Khoa học và công nghệ Mỏ Việt Nam, Hội Khoa học và công nghệ xây dựng Việt Nam và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội được Nhà nước trao tặng các Huân chương Lao động hạng hai, hạng ba.
Đoàn chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam nhiệm kỳ III (1993-1998)

Đoàn chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam nhiệm kỳ III (1993-1998)

Lễ ký kết hợp tác giữa Liên hiệp Hội Việt Nam và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 1998

Lễ ký kết hợp tác giữa Liên hiệp Hội Việt Nam và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 1998

Từ ngày 7 đến ngày 9/1/1999, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của 213 đại biểu đại diện 63 hội thành viên (40 hội khoa học kỹ thuật ngành trung ương và 23 liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố). Đại hội thông qua các văn kiện của Hội đồng Trung ương khóa III và Điều lệ (bổ sung, sửa đổi). Đại hội bầu ra Hội đồng Trung ương khóa IV gồm 133 ủy viên. Hội nghị Hội đồng Trung ương lần thứ Nhất bầu ra Đoàn Chủ tịch gồm 17 ủy viên do Giáo sư, Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng làm Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam
Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam

Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam

Trong nhiệm kỳ IV (1999-2004), Liên hiệp Hội Việt Nam đã có bước phát triển nhanh về xây dựng tổ chức với nhiều loại hình tập hợp trí thức khoa học và công nghệ. Liên hiệp hội có 92 hội thành viên (tăng thêm 28 thành viên so với nhiệm kỳ trước), trong đó có 56 hội ngành Trung ương và 36 Liên hiệp hội địa phương. Trong tổ chức của hội thành viên có các hội chuyên ngành. Mạng lưới tổ chức của nhiều hội đã phát triển sâu rộng trong các thành phần kinh tế, khoảng 43% số hội có chi hội trong các doanh nghiệp nhà nước, 15% có chi hội trong các doanh nghiệp khác. Liên hiệp Hội Việt Nam tập hợp trong hàng ngũ của mình hơn 40 vạn trí thức KH&CN. Phạm vi hoạt động của các hội đã bao quát hầu hết các lĩnh vực KH&CN. Các hội Địa chất, Xây dựng được Nhà nước cho phép chuyển thành Tổng hội do có số lượng hội viên tập thể lớn.