|
GS. VS. Trần Đại Nghĩa, chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam (1983-1988) |
Tại đại hội, các đại biểu đã thông qua Điều lệ Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, đứng dầu là Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa làm chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam. Sau 4 tháng thành lập, đến ngày 29/7/1983, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) ra Quyết định số 121/HĐBT về việc cho phép Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chính thức thành lập và hoạt động.
Sự kiện ra đời tổ chức Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) năm 1983 đã gây được tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước, lần đầu tiên có một tổ chức mang tính chính trị - xã hội – nghề nghiệp của giới trí thức khoa học và công nghệ, với sứ mệnh đoàn kết, tập hợp trí thức, tổ chức và thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ hướng tới mục tiêu phát triển đất nước. Đại hội thành lập Liên hiệp hội Việt Nam cũng đã kết thúc giai đoạn trù bị lâu dài 18 năm kể từ khi Ủy ban liên lạc lâm thời các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam bắt đầu hoạt động.
|
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tham dự đại hội thành lập Liên hiệp Hội Việt Nam |
Trong nhiệm kỳ I (1983-1988), Liên hiệp Hội Việt Nam tập trung công tác phát triển tổ chức, hoàn thiện cơ chế quản lý, tổ chức các hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ, triển khai các dự án đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống phục vụ mục tiêu phát triển cộng đồng, phát triển xã hội. Với đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước, trong đó vị trí và vai trò của Liên hiệp hội và các hội khoa học- kỹ thuật càng ngày được khẳng định. Ngày 11/4/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 35-CT/TW "Về củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam". Bản Chỉ thị nêu rõ: "Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là tổ chức xã hội tự nguyện của tất cả các hội khoa học kỹ thuật của người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước... được tổ chức và hoạt động theo cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương".
Ngày 12/5/1988, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của trên 100 đại biểu đại diện 23 hội thành viên. Đại hội thông qua Báo cáo của Ban Chấp hành, Điều lệ (bổ sung, sửa đổi), Quy chế tổ chức và hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Đại hội bầu ra 49 ủy viên Hội đồng Trung ương. Hội đồng Trung ương bầu Đoàn Chủ tịch gồm 9 ủy viên do Giáo Sư, Tiến sĩ Hà Học Trạc làm Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam.
Sau Đại hội II, số lượng các hội thành viên của Liên hiệp hội tăng lên gần gấp đôi (từ 23 đến 42 hội). Hàng năm có nhiều hội ngành mới được thành lập. Sự phát triển mạnh mẽ của Liên hiệp hội và các hội khoa học và kỹ thuật thành viên đặt ra yêu cầu cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Ngày 17/11/1990, Đảng ủy khối cơ quan Khoa giáo Trung ương ra Quyết định số 405/QĐ-ĐUK thành lập Đảng bộ Cơ quan Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam với 4 chi bộ và 36 đảng viên. Ngày 20/2/1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 436-NS/TW thành lập Đảng đoàn Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, do Giáo sư Hà Học Trạc, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam, làm Bí thư.
Trong nhiệm kỳ II, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng được chú trọng đẩy mạnh. Việc thực hiện chức năng hỗ trợ đưa tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất và đời sống đã đạt được những thành tựu mới. Tư vấn, phản biện và giám định xã hội đã thể hiện được vai trò tích cực của Liên hiệp Hội Việt Nam. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, các nhà khoa học đã tích cực đóng góp ý kiến cho Cương lĩnh chính trị của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Ngày 27-28/9/1993, tại Hà Nội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của 184 đại biểu đại diện 42 hội thành viên (34 hội khoa học và kỹ thuật ngành trung ương và 8 liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố). Đại hội bầu ra Hội đồng Trung ương khóa III gồm 95 ủy viên. Hội đồng Trung ương khóa III tiếp tục suy tôn Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa làm Chủ tịch danh dự, bầu Đoàn chủ tịch gồm 11 ủy viên với Giáo sư, Tiến sĩ Hà Học Trạc làm Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ III, Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển về xây dựng tổ chức, tập hợp và đoàn kết trí thức, điều hòa và phối hợp hoạt động của các hội thành viên. Hội đồng Trung ương có những thay đổi cả về số lượng và thành phần. Năm 1998, Hội đồng Trung ương có 130 ủy viên, đại diện cho 40 hội khoa học và kỹ thuật ngành ở Trung ương, 19 trong số 23 Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố, Cơ quan thường trực Liên hiệp hội trung ương và một số nhà khoa học. Cũng trong nhiệm kỳ III, lần đầu tiên mạng lưới các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phát triển ra cả nước ngoài. Tiêu biểu là việc thành lập Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tại Liên Bang Nga (12/1993). Các hội thành viên phát triển theo hướng tổ chức các hội chuyên ngành hoặc phân hội mới trong từng hội và thành lập thêm các chi hội địa phương. Một số Hội thành viên đã đạt được những thành tích đáng khích lệ như Hội Luật gia Việt Nam được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Hội Những người làm vườn Việt Nam, Hội Khoa học và công nghệ Mỏ Việt Nam, Hội Khoa học và công nghệ xây dựng Việt Nam và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội được Nhà nước trao tặng các Huân chương Lao động hạng hai, hạng ba.
|
Đoàn chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam nhiệm kỳ III (1993-1998) |
|
Lễ ký kết hợp tác giữa Liên hiệp Hội Việt Nam và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 1998 |
Từ ngày 7 đến ngày 9/1/1999, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam diễn ra với sự tham gia của 213 đại biểu đại diện 63 hội thành viên (40 hội khoa học kỹ thuật ngành trung ương và 23 liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố). Đại hội thông qua các văn kiện của Hội đồng Trung ương khóa III và Điều lệ (bổ sung, sửa đổi). Đại hội bầu ra Hội đồng Trung ương khóa IV gồm 133 ủy viên. Hội nghị Hội đồng Trung ương lần thứ Nhất bầu ra Đoàn Chủ tịch gồm 17 ủy viên do Giáo sư, Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng làm Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam
|
Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam |
Trong nhiệm kỳ IV (1999-2004), Liên hiệp Hội Việt Nam đã có bước phát triển nhanh về xây dựng tổ chức với nhiều loại hình tập hợp trí thức khoa học và công nghệ. Liên hiệp hội có 92 hội thành viên (tăng thêm 28 thành viên so với nhiệm kỳ trước), trong đó có 56 hội ngành Trung ương và 36 Liên hiệp hội địa phương. Trong tổ chức của hội thành viên có các hội chuyên ngành. Mạng lưới tổ chức của nhiều hội đã phát triển sâu rộng trong các thành phần kinh tế, khoảng 43% số hội có chi hội trong các doanh nghiệp nhà nước, 15% có chi hội trong các doanh nghiệp khác. Liên hiệp Hội Việt Nam tập hợp trong hàng ngũ của mình hơn 40 vạn trí thức KH&CN. Phạm vi hoạt động của các hội đã bao quát hầu hết các lĩnh vực KH&CN. Các hội Địa chất, Xây dựng được Nhà nước cho phép chuyển thành Tổng hội do có số lượng hội viên tập thể lớn.