Chuyện báo oán rùng rợn ở làng mổ trâu Hà Nội

Trong làng mổ trâu Hà Nội, hầu hết những gia đình đó đều có hậu vận không tốt, gặp họa đến nhiều đời sau nữa...

Con trâu là vật nuôi gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng ngàn năm trước, nó là đầu cơ nghiệp, là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vì thế, người ta tin, nó có linh hồn.
Ông thủ từ ngôi đền Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội) Hồ Xuân Đức nói rằng: “Con trâu là loài làm thật, ăn giả. Nó chỉ ăn cỏ, ăn rơm, mà làm ra lúa gạo, tiền của nuôi sống con người. Gia đình nào tốt bụng, còn lấy bao tải mặc cho nó, rồi căng bạt, đốt lửa sưởi ấm cho nó vào những ngày giá lạnh. Vậy mà con người nỡ giết nó, thì nặng nghiệp lắm!”.
Chuyện của ông thủ từ ngôi đền thờ vua Lý Nam Đế cứ rủ rỉ, rù rì, mà đầy thương xót loài vật nuôi gần gũi với nhà nông.
Chuyện của người mổ trâu
Ông Đức bảo rằng, mấy chục năm nay, ông theo dõi chủ lò mổ trâu, bò, ngựa, những con vật ăn cỏ, là đầu cơ nghiệp của nhà nông và nhận thấy rằng, hầu hết những gia đình đó đều có hậu vận không tốt, gặp họa đến nhiều đời sau nữa. Còn kiếp sau của những đồ tể đó thế nào, thì chỉ có về thế giới bên kia mới biết được.
Rồi ông Đức kể chuyện về ông ba toa H., nhà ở làng Giang Xá, xã Đức Giang. Ông H. có lò mổ trâu nhỏ, mỗi ngày giết 1-3 con. Nghề mổ trâu có từ đời cha ông H. Bố của ông cũng là thợ mổ trâu có tiếng. Bố chết, ông H. nối tiếp công việc sát sinh này.
Là bạn thân, nên ông Đức thường xuyên trò chuyện, tâm tình với ông H. về nghề sát sinh, đặc biệt là sát hại loài trâu. Ông H. làm giàu bằng nghề này, nên không thể bỏ được. Nghe khuyên giải nhiều quá, nhiều lần ông H. còn nổi cáu với người bạn thân.
Chuyen bao oan rung ron o lang mo trau Ha Noi
Làng mổ trâu Phúc Lâm.
Một hôm, cách đây chừng 10 năm, ông H., khi đó ngoài 50 tuổi, ra đền Giang Xá ngồi uống nước với ông Đức và mấy cựu chiến binh trong xóm. Vừa thắp nhang trong đền xong, ngồi uống được mấy chén nước, rít điếu thuốc lào, ông H. kêu tức ngực, khó chịu trong người và bảo: “Mấy ông ngồi đây, tôi về nghỉ tí”.
Nói rồi, ông H. lững thững đi về. Lát sau, vợ ông H. hớt hải chạy ra đền, mặt mũi xám ngoét: “Các bác vào nhà tôi xem thế nào, ông nhà tôi cứ làm sao ấy!”.
Ông Đức chạy vào, thấy ông H. nằm bất động trên giường, lay không dậy, gọi không thưa. Lát sau, y tá đến, thì ông H. co giật đùng đùng, rồi hộc máu tươi chết. Ông chết một lúc rồi, mà dòng máu tươi vẫn rỉ ra từ miệng. Nhìn cảnh ấy, ai cũng kinh hãi.
Ông H. chết đi, nghe lời khuyên của ông Đức, con cháu dẹp bỏ lò mổ, không theo nghề sát sinh này nữa. Theo lời ông Đức, ông đã theo dõi một số vụ chết chóc của những người giết mổ gia súc và thấy rằng, một số người trong số họ, dù chết trẻ hay chết già, đều có máu tươi chảy ra đằng miệng (?!).
Câu chuyện về những đồ tể mổ trâu, còn gọi là ba toa, mà ông Hồ Xuân Đức, thủ từ đền Giang Xá kể, khiến tôi tò mò, tìm hiểu về nghề mổ trâu bò. Tôi tìm về ngôi làng có truyền thống mổ trâu bò lâu đời nhất Việt Nam, đó là làng Phúc Lâm (Hoàng Ninh, Việt Yên, Bắc Giang).
Cả làng sống nhờ… trâu
Từ quốc lộ 1A cũ, rẽ vào đường liên huyện không xa, thì đến làng Phúc Lâm. Ngôi làng khá sầm uất, nhà cửa chen chúc, với cổng làng to tướng ghi rõ: Làng Phúc Lâm.
Bước chân vào cổng làng, đủ thứ mùi, thối của phân, khai của nước tiểu, tanh nồng của máu, mỡ, thịt chảy dưới những rãnh nước bốc lên xộc vào mũi. Tô đang hí hoáy chụp cảnh rãnh nước ô nhiễm, thì gặp ông Đỗ Văn Khuyến, phó thôn, từng là một chủ lò mổ lớn nhất nhì làng Phúc Lâm, là tay buôn trâu, mổ trâu có hạng.
Ông Đỗ Văn Khuyến nhiệt tình tiếp đón chúng tôi trong căn nhà xây dựng kiểu cổ bằng gỗ rất đẹp, với đầy đủ sập gụ, tủ chè. Tôi hỏi vui: “Chắc nghề buôn trâu mang lại cho đồng chí phó thôn sự giàu có, thịnh vượng?”.
Ông Khuyến xua tay: “Không có đâu nhà báo ạ. Ở làng này vốn cả làng làm nghề mổ trâu, lái trâu. Nhưng nói thật, làm cái nghề sát sinh ấy cũng bạc lắm, chẳng vương tướng gì đâu. Bao năm làm nghề, tôi nhẩm tính, nghề mổ trâu ở khắp cả nước này, chỉ thấy được vài phần ngàn là khá giả, còn lại chỉ đủ sống, đủ ăn, thậm chí là thất bại nặng nề.
Tôi vốn là thợ mổ có tiếng, nhà có lò mổ to lắm, mỗi ngày giết 10-20 con trâu, lại đi buôn trâu xuyên Việt, nhưng nhận ra nghề này bạc lắm, nên tôi chuyển sang mở nhà hàng, cửa hàng cơ khí ngoài phố. Giờ tôi vẫn làm việc liên quan đến con trâu, nhưng chỉ là buôn da trâu thôi.
Cả làng này bán da trâu cho Trung Quốc, nghĩ mà xót xa, tiếc rẻ lắm. Tôi chỉ bán cho họ được giá 20 ngàn đồng 1 kg da. Họ chi phí cỡ 20 ngàn đồng để thuộc được 1 kg da trâu. Nhưng 1 kg da trâu ấy, họ làm ra tấm áo da bán lại cho người Việt mình cả chục triệu đồng, thậm chí cả ngàn USD sang châu Âu.
Rồi một bộ da trâu, sau khi chế biến, làm ra bộ ghế da, họ bán với giá cả trăm triệu, đắt gấp mấy lần con trâu cũng là điều khiến mình rất xót xa”.
Sau khi phân tích đủ thứ đau xót, tiếc rẻ về nguồn nguyên liệu da trâu, ông Khuyến quay về cái làng nghề mổ trâu có tiếng cả nước của mình.
Làng vốn nằm cạnh ga Sen Hồ, là nơi trọng điểm bắn phá của cả Pháp và Mỹ. Người Pháp đóng chốt ở đây, bắn phá, càn quét làng, nên dân làng thường xuyên phải bỏ xứ đi nơi khác. Cũng chính vì đi nhiều nơi, nên học được nhiều nghề, như làm bún, bánh đa, bánh dẻo…
Chuyen bao oan rung ron o lang mo trau Ha Noi-Hinh-2
Trong một lò mổ trâu ở Phúc Lâm.
Nghề mổ trâu mới có ở làng… 100 năm trước. Hai người đầu tiên đưa nghề mổ trâu về làng là ông cụ Chắt và ông cụ Đào, người ở Lim lên đây. Lò mổ của hai gia đình này phát triển mạnh, thuê mướn nhiều nhân công trong làng, nên dân làng từ đó học được nghề, rồi tự đứng ra lập lò mổ, thu mua trâu về làm thịt.
Từ hai lò mổ, tăng lên thành 5 lò, và cứ thế, nghề mổ trâu ở Phúc Lâm lan rộng khắp làng. Thời kỳ cao điểm, vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước, gần như cả làng Phúc Lâm đều làm nghề mổ trâu. Có tới 90% số hộ dân trong làng làm nghề giết mổ gia súc, cung cấp thịt trâu cho các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và hầu hết các tỉnh lân cận.
Làng Phúc Lâm có cả một đội quân lái trâu, đi khắp đất nước, từ miền núi đến vùng xuôi, tận trong Nam, ngoài Bắc, sang cả Lào, Campuchia, thậm chí Thái Lan để tuyển lựa, thu mua trâu. Trong những phiên chợ gia súc trên Hà Giang, Lào Cai, dân lái trâu Phúc Lâm còn đông hơn cả lượng đồng bào dắt trâu đi bán. Họ thu gom trâu, dồn lên những chiếc xe tải cỡ lớn chở về làng xẻ thịt.
Đêm giết mổ rùng rợn
Để tận mắt cảnh tượng mổ trâu, 2h sáng, trong vai người buôn bán, tôi hòa vào dòng người đông đúc vào làng Phúc Lâm. Ban ngày, làng Phúc Lâm khá êm đềm, nhưng nửa đêm về sáng nhộn nhịp như một cái chợ lớn. Hàng trăm người tấp nập ra vào, điện sáng trưng ở các lò mổ. Trâu rống ầm ĩ làng xóm.
Lò mổ nhà anh B., có 5 trâu mộng buộc ở cọc. Chỉ có mỗi vợ chồng anh làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm này. Anh B. dắt dắt trâu vào sân, cột chặt lại. Chú trâu ngái ngủ, khuôn mặt ngơ ngác, như thể chưa hiểu chuyện gì sẽ xảy ra với mình.
Như lực sĩ, anh vung chiếc vồ thép đập bốp trúng đầu. Con trâu mộng trúng nhát búa, choáng váng khụy chân xuống nền gạch. Chị vợ đưa cho anh B. con dao nhỏ xíu, chỉ cỡ hai đầu ngón tay? Đây là dao mổ trâu sao?
Chuyen bao oan rung ron o lang mo trau Ha Noi-Hinh-3
 Cảnh tượng ở làng mổ trâu Phúc Lâm. Ảnh Phạm Hải.
Cầm con dao nhỏ xíu, anh B. xiên một nhát thật ngọt ở cổ. Máu ồng ộc chảy ra, ngập 2 chiếc chậu lớn, tràn trề cả ra nền sân, đỏ choe choét. Cảnh tượng quả thực vô cùng rùng rợn.
Cũng vẫn con dao nhỏ đó, anh B. rạch một đường ở cổ. Cứ một tay kéo da, một tay lướt con dao nhỏ rất điệu nghệ, bộ da trâu rất lớn tuột khỏi con trâu, lồ lộ một đống thịt.
Anh B. bảo, dưới da trâu có một lớp màng mỡ, không dính liền với thịt, nên lột rất nhanh. Nói không ngoa, có tận mắt mới mấy, thợ mổ trâu ở Phúc Lâm lột da trâu nhanh như lột da gà.
Cũng chỉ với con dao nhỏ xíu đó, từng tảng thịt được lóc ra. Đầu, chân, xương lần lượt được tách rời. Tính ra, chỉ 15 phút, con trâu to tướng chỉ còn lại đống bầy nhầy lòng phèo nằm giữa sân, thịt xương đã thành từng đống riêng biệt. Con trâu khác lại được dắt vào. Anh B. lại vung búa…
4 giờ sáng, hàng chục lái buôn đã đổ về lò mổ nhà anh B. Người chất thịt lên xe, người lấy xương, người lấy chân, đầu, gân cơ. Riêng nội tạng cũng có mấy người gom hàng, mỗi người lấy một món riêng biệt. Hàng chục con người vật lộn với đống bầy nhầy, giữa khoảnh sân ngập ngụa máu tươi thật hãi hùng không tả nổi. Người yếu vía nhìn cảnh tượng máu me này chắc ngất xỉu.

Về làng toàn những người chỉ biết “điểm chỉ“

Không chữ, không đất, không vốn... hàng trăm con người của làng "điểm chỉ" ở Thái Bình vẫn lấy thuyền làm nhà, lấy sông làm chợ, lấy ngón tay thay bút... 

Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“
Nằm rải rác từ ven sông xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương) kéo dài tới cửa biển Cồn Vành (huyện Tiền Hải, Thái Bình), làng chài Cao Bình còn được gọi là làng hoa văn – làng điểm chỉ do khoảng 70 % người dân mù chữ. 
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-2
Tên làng điểm chỉ ở Thái Bình (hay còn gọi vui là làng "hoa văn")  xuất phát từ việc người dân nơi đây chỉ biết điểm chỉ vào các văn bản hành chính như: Giấy đăng ký kết hôn, thủ tục vay vốn ngân hàng, sổ hộ khẩu… 
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-3
Cho đến thời điểm này, mặc dù số người biết chữ đã tăng lên nhưng nhiều người trong số họ vẫn có thói quen sử dụng phương pháp điểm chỉ thay cho chữ ký. 
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-4
 Mặc dù kinh tế ở mức trung bình, nhưng với nhiều người dân làng điểm chỉ Cao Bình, việc cho những đứa con nhỏ theo con chữ cũng giống như kiếp mưu sinh theo con nước đầy vơi.
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-5
 Bên cạnh việc mù chữ, nhiều hộ dân của Cao Bình vẫn phải sống theo diện “Tam đại đồng thuyền”, gần chục con người sống trên một chiếc thuyền gỗ, coi thuyền là nhà, chợ là sông.
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-6
 Với những gia đình đang sống theo mô hình này, họ thường chọn một góc sâu vào đất liền để tập kết và tách ra khỏi xóm chài.
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-7
 Cao Bình hiện có 171 hộ với gần 800 nhân khẩu, dù hết sức cố gắng nhưng chính quyền địa phương mới chỉ cấp được đất cho 80 hộ để lên bờ xây nhà.
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-8
 Trong khi chính bản thân người dân làng chài cũng rất hoang mang về việc tính kế sinh nhai khi lên bờ.
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-9
Chính vì vậy, cuộc di dân của Cao Bình từ thuyền lên đất liền còn lắm trở ngại và gian nan. 
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-10
Ngay đối với những hộ đã được cấp đất để lên bờ cũng đang gặp khó trong việc xóa mù chữ cho con cái.  
Ve lang toan nhung nguoi chi biet “diem chi“-Hinh-11
Trường học duy nhất của xã Hồng Tiến cách xóm Cao Bình khoảng 5km đường đê, bố mẹ lại thường xuyên đi biển nên hầu hết các em đều phải tự đi học. 

Đắng lòng cổng làng hoành tráng 300 triệu của thôn nghèo!

(Kiến Thức) - Dân không thể nhìn ngắm cái cổng làng hoành tráng 300 triệu đồng mà no được, cũng như không thể ngắm pháo hoa mà hết nghèo...

Người dân ở thôn 2 (xã Trà Thủy, huyện miền núi Trà Bồng, Quảng Ngãi) vừa được chính quyền huyện ưu ái tặng cho một món quà thật giá trị: Cái cổng chào được xây dựng với chi phí gần 300 triệu đồng từ ngân sách địa phương.

Dang long cong lang hoanh trang 300 trieu cua thon ngheo!
 Cổng làng hoành tráng 300 triệu.

Một cái cổng thật “hoành tráng” so với cấp độ của một thôn chỉ có 107 hộ dân. Nhưng sự hoành tráng của nó có lẽ ở chi phí mà người ta đã xây dựng hơn là cái hình ảnh thực của nó. Bỏ ra một đống tiền để có một cái cổng chào phơi nắng phơi mưa quanh năm suốt tháng và chỉ để ghi mỗi cái danh “Thôn văn hóa” thì quả thực là một sự lãng phí ghê gớm!

Nhưng sự lãng phí ấy có thể thông cảm được bởi văn hóa cổng chào vốn là nét đặc trưng của xứ ta từ xưa đến nay, cho nên không làng xã nào mà lại không có một cái cổng chào. Cổng chào còn hiện diện sừng sững ở các cửa ngõ ra vào các huyện, tỉnh, thành phố khắp cả nước. Hầu hết những cái cổng chào đồ sộ ấy chỉ có chức năng chuyển tải mỗi cái thông điệp: Huyện/tỉnh/thành X kính chào quí khách và “See you again!”.

Thế nhưng, điều khiến dư luận không thể thông cảm nổi khi biết hiện tình của người dân thôn 2 xã Trà Thủy ra sao. Thôn có 107 hộ với 365 khẩu, thì số hộ nghèo chiếm đến hơn một nửa: 57 hộ với 200 khẩu. Mức thu nhập trung bình của cả thôn chưa đến 500.000 đồng/tháng/người. Quả là những con số gây sốc! Và thật phản cảm khi trên cái cổng chào hoành tráng kia người ta kẻ dòng chữ to đùng: “Thôn văn hóa – thôn 2, xã Trà Thủy, huyện Trà Bồng”. Chao ôi, thôn văn hóa mà có hơn một nửa là số hộ nghèo với nhà cửa dột nát!? Chẳng hiểu các vị lãnh đạo huyện Trà Bồng căn cứ vào tiêu chí nào mà “ban tặng” thôn nghèo cái danh hiệu cao quí ấy?

Dang long cong lang hoanh trang 300 trieu cua thon ngheo!-Hinh-2
 Nhà của một hộ dân ở thôn 2 Trà Thủy.

Trong hoàn cảnh hiện tại của mình, cái mà người dân thôn 2 Trà Thủy cần là cơm ăn, áo mặc là nhà cửa không bị dột nát, con cái không bị thất học vì nghèo đói chứ không phải là cái cổng chào xa xỉ đứng trơ trọi, lạc lõng ở ngoài đầu thôn kia. Nếu chính quyền thực sự quan tâm tới bà con thì hãy bằng những việc làm thiết thực giúp họ từng bước thoát nghèo. Dân không thể nhìn ngắm cái cổng làng hoành tráng mà no được, cũng như không thể ngắm pháo hoa mà hết nghèo như một vị quan chức ở thủ đô từng “lí luận”.

Bởi thế, dư luận không thể đồng tình với lời giải thích mà ông Nguyễn Thanh Tùng, trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Trà Bồng, đại diện chủ đầu tư đưa ra: “Việc huyện đầu tư để xây cổng chào to như vậy cho thôn 2 là bởi đây là nơi mà người dân có công lớn trong việc bảo tồn và lưu giữ bản sắc văn hóa của đồng bào người Kor ở địa phương. Vì vậy huyện muốn làm điều gì đó cho người dân nơi đây”. 

Thì ra, món quà đặc biệt này không phải từ trên trời rơi xuống mà là phần thưởng cho đồng bào đã có công sức bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Nhưng than ôi, liệu cái cổng chào mà huyện tặng, có làm được điều gì đó cho đồng bào như ông trưởng phòng VHTT nói trong công cuộc bảo tồn văn hóa dân tộc khi mà cuộc sống của hơn một nửa hộ dân trong thôn còn nghèo khó? Hay món quà ấy suy cho cùng chỉ là sự giải ngân cho một “dự án” đã được tính toán sẵn?

Tin mới