Chuyện chưa biết về vụ Hà thành đầu độc

Chặt đầu xong, chúng bêu đầu cụ ở chợ, xác quẳng xuống hố chôn tập thể gần khu vực chợ Bưởi bây giờ. 

Kỳ 1: Cụ đồ Đàm và hành động trượng nghĩa chết thay dân làng
Ngày 27/6 vừa qua, chị Nguyễn Thị Thu Hương (Giám đốc Trung tâm truyền thông tâm linh), cùng một số nhà nghiên cứu tâm linh, gọi tôi cùng đi, thắp nhang tưởng nhớ các vị đầu bếp đặc biệt nhân 106 năm ngày nổ ra vụ nổi dậy chấn động Hà thành đầu độc.
Vụ các đầu bếp dũng cảm Hà thành lập mưu tính kế đầu độc quan pháp ở thành Hà Nội được sử sách nhắc đến nhiều. Tấm ảnh bêu đầu các chí sĩ yêu nước trong rọ tre có lẽ là một trong số những bức ảnh gây ám ảnh nhất trong lịch sử chống ngoại xâm nước nhà. Tuy nhiên, thân phận các chí sĩ yêu nước ấy thì ít người biết.
Anh Phạm Văn Túy và chị Nguyễn Thị Thu Hương.
 Anh Phạm Văn Túy và chị Nguyễn Thị Thu Hương.
Tôi rất ấn tượng với một thành viên trong đoàn hôm đó, là anh Phạm Văn Túy. Anh Túy năng nổ đưa đón mọi người, chăm lo hương khói, hoa lễ. Tôi đoán anh là con cháu của vị chí sĩ nào đó, nhưng hóa ra không phải. Anh chỉ là người cùng làng với cụ đồ Đàm, người làng Tạ Xá (xã Đại Thắng, Phú Xuyên, Hà Nội).
Anh Túy mở cốp xe, lấy trong chiếc cặp da màu đen, đưa cho tôi một tập tài liệu rất dày. Thật ngạc nhiên khi biết bao nhiêu năm nay, anh nghiên cứu tài liệu, chạy đôn chạy đáo, nhằm mưu cầu Nhà nước có sự quan tâm thích đáng đến những nhân vật trong vụ Hà thành đầu độc đã chết một cách oanh liệt từ hơn 100 năm trước.
Trong tập tài liệu ấy, có cả những văn bản của người Pháp, được anh lấy từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia, là văn bản hiếm hoi chính thống về sự kiện này.
Hình ảnh chặt đầu chí sĩ yêu nước trong vụ Hà thành đầu độc.
 Hình ảnh chặt đầu chí sĩ yêu nước trong vụ Hà thành đầu độc.
Anh Túy xúc động: “Hồi bé, vào đình chơi, thấy có ban thờ nho nhỏ, tôi hỏi, bố tôi bảo đó là bàn thờ cụ đồ Đàm. Tôi đã được bố kể cho nghe về sự hy sinh của cụ đồ Đàm. Vì giặc Pháp đe dọa sẽ giết cả làng, nên cụ đã phải lộ diện và chịu chết. Cụ đã chết để cứu mạng dân làng chúng tôi.
Chuyện về cụ ám ảnh tôi từ bé, nên khi có điều kiện, tôi bỏ thời gian tìm hiểu kỹ hơn. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy đau lòng. Các cụ là những chí sĩ yêu nước, là những người mang khát vọng giải phóng đất nước, nhưng vì đất nước mà vong mạng. Thế nhưng, các cụ chưa được đền đáp xứng đáng. Đến nơi tưởng niệm các cụ, cũng thật đáng buồn”.
Để tôi hiểu hơn về cụ đồ Đàm, người mà theo anh Túy, có đóng góp rất lớn trong vụ Hà thành đầu độc, là người cứu mạng cả làng, song bị lãng quên, anh đã đưa tôi về tận làng Tạ Xá.
Đình làng Tạ Xá.
 Đình làng Tạ Xá.
Đình làng Tạ Xá cổ kính nằm dưới những tán cây um tùm, bên hồ nước rộng mênh mang. Trong đình, các cụ già đã có mặt đầy đủ tiếp đón chúng tôi.
Ban thờ cụ đồ Đàm ở góc nhỏ ngôi đình khói hương nghi ngút. Cụ Tảo, chi hội người cao tuổi thôn Tạ Xá nhấp chén trà, rồi bắt đầu câu chuyện về cụ đồ Đàm.
Cụ đồ Đàm, tên thật là Đỗ Khắc Nhã, là con một nhà nho nghèo ở làng Tạ Xá, xưa thuộc làng Lương Xá, tổng Tạ Xá, tỉnh Hà Đông. Bố mẹ cưới cho cô vợ tên Nguyện, người Vân Nội, làng bên. Lấy vợ, đẻ 2 người con, thì cụ rời làng về Hà Nội làm gì không rõ.
Sau này, dân làng mới biết, cụ tham gia tổ chức nhà nho yêu nước do cụ Đề Thám lập ra. Cụ được tổ chức phân công cùng một số cụ ở Hà Nội tổ chức vụ đầu độc các quan chức cao cấp người Pháp. Cụ nhận nhiệm vụ cắm cờ và chỉ huy một cánh quân tiến vào Hà Nội.
Ban thờ cụ đồ Đàm trong đình Tạ Xá.
 Ban thờ cụ đồ Đàm trong đình Tạ Xá.
Kế hoạch diễn ra như đã phân công, cụ đồ Đàm dẫn quân ém ở khu vực cột cờ Hà Nội, chờ tín hiệu của cụ đội Nhân. Theo quy định, nếu đến giờ, có tín hiệu thì nổi dậy tấn công, còn không có tín hiệu thì tự động giải tán. Tuy nhiên, khi đến giờ nghe tiếng báo động, biết kế hoạch đã bại lộ, cụ giải tán quân.
Gặp một người làng kéo xe tay, cụ liền nhảy lên xe đi trốn. Chỉ biết rằng, cụ đã trốn về khu bãi sậy thuộc đất Hưng Yên, vùng Kim Động. Hiện vẫn chưa rõ ở làng nào, xã nào.
Thân thế bại lộ, thực dân Pháp lùng sục ráo riết khắp vùng. Thời gian sau, thực dân Pháp đưa giấy về tỉnh Hà Đông. Tỉnh xức giấy về làng. Nội dung tờ thông báo có nội dung sẽ chặt đầu toàn bộ dân cư hai làng, là làng Tạ Xá quê cụ Đàm và làng Vân Nội quê vợ cụ, nếu cụ Đàm không ra trình diện chính quyền Pháp.
Cụ Tảo kể lại chuyện về cụ đồ Đàm.
Cụ Tảo kể lại chuyện về cụ đồ Đàm.
Cụ Nguyễn Văn Hát, ở thôn cạnh, đi đò qua sông Hồng, sang Hưng Yên buôn bán, đã gặp được cụ Đàm, cải trang thành ông lão râu tóc bạc phơ. Cụ Hát nhận ra cụ đồ Đàm qua dáng người, nốt son lớn ở tay và những ngón tay búp măng đặc trưng của thầy đồ ngày đó.
Cụ Hát thuật lại chuyện dân hai làng lo lắng ngày đêm mất ngủ, vì sắp bị thực dân Pháp xử tử. Cụ đồ Đàm bảo cụ Hát cứ về làng, cụ sẽ ra trình diện chính quyền.
Cụ Hát về làng, kể lại chuyện gặp cụ đồ Đàm, tuy nhiên, không biết cụ Đàm trú ngụ ở đâu. Quan chức phong kiến muốn mời cụ Đàm về, nhưng không dám sang, sợ cụ trốn mất, nên cử cụ Hát sang Hưng Yên gặp gỡ.
Gặp lại ở điểm hẹn, cụ đồ Đàm bảo cụ Hát: “Ông cứ về nói với quan Pháp là tôi sẽ ra trình diện chính quyền. Tuy nhiên, tuyệt đối ông không được tiết lộ nơi tôi ở, kẻo giặc sát hại những người cưu mang tôi”.

Vài ngày sau, cụ đồ Đàm về thật. Dân làng gặp cụ thì buồn thảm, khóc lóc ghê gớm. Cha cụ đồ Đàm cùng nhân dân làm lễ tế sống suốt 3 ngày. Hội đồng môn, học trò cũng mổ lợn làm lễ tế sống rất to, bởi ai cũng biết rằng, cụ sẽ bị chặt đầu.

Xong lễ tế sống, dân làng đưa cụ lên nhà lao Hà Đông, chỗ chợ Hà Đông bây giờ. Lấy khẩu cung xong, chúng đưa cụ về nhà giam Hỏa Lò. 6 ngày sau, chúng đưa cụ ra pháp trường Bãi Bàng (giờ là chỗ chợ Bưởi) xử tử. Hôm chặt đầu cụ, dân làng, cụ Nguyện (vợ cụ đồ Đàm) cũng có mặt. Cụ đồ Đàm cởi chiếc khăn the đưa cho vợ, dặn rằng, dùng chiếc khăn the may áo cho con trai.
Chặt đầu xong, giặc Pháp bêu đầu cụ ở chợ, xác quẳng xuống hố chôn tập thể những người bị bắt trong vụ Hà thành đầu độc.
Cụ Nguyễn Văn Quế, người làng Tạ Xá kể: “Ông nội tôi là người chứng kiến tận mắt cuộc hành quyết cụ đồ Đàm. Ông tôi kể rằng, cụ đồ Đàm có vóc dáng thư sinh, tóc dài búi sau lưng. Vì búi tóc to quá, nên đồ tể chặt mấy lần mới đứt đầu cụ, nhìn thương tâm lắm. Lúc ra pháp trường, cụ đồ Đàm không hề sợ hãi, mà ngẩng cao đầu cười nhạo chúng.
Ngày đó, giặc Pháp giấu thông tin ghê lắm. Chúng chỉ thông cáo rằng đây là hành động bạo loạn của một nhóm người, nhằm thu nhỏ sự kiện, tránh gây bức xúc, manh động trên diện rộng.
Tuy nhiên, thực tế, đây là sự kiện chính trong âm mưu cướp chính quyền của cụ Đề Thám. Nếu vụ đầu độc thành công, cụ Đề Thám sẽ đưa quân về đánh chiếm Hà Nội, có thể sẽ thay đổi cục diện khi đó, mà không chừng sẽ giải phóng được dân tộc. Vì vậy, tôi đánh giá sự kiện Hà thành đầu độc là sự kiện lớn, cần được lịch sử đánh giá, ghi nhận xứng đáng”.
Còn tiếp…

Ảnh hiếm: Hành quyết dã man vụ “Hà thành đầu độc” 1908

Mục đích của vụ mưu sát là nhằm đầu độc quân Pháp để chiếm Hà Nội, thêm sự tiếp ứng và chỉ đạo từ bên ngoài của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cùng với sự tham gia của Phan Bội Châu trong việc vạch kế hoạch để tạo cuộc khởi nghĩa đánh đuổi người Pháp. Trong ảnh là các chiến sĩ cách mạng bị giam trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
 Mục đích của vụ mưu sát là nhằm đầu độc quân Pháp để chiếm Hà Nội, thêm sự tiếp ứng và chỉ đạo từ bên ngoài của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cùng với sự tham gia của Phan Bội Châu trong việc vạch kế hoạch để tạo cuộc khởi nghĩa đánh đuổi người Pháp. Trong ảnh là các chiến sĩ cách mạng bị giam trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.

Lực lượng làm binh biến là các bồi bếp và binh lính người Việt thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội nằm trong trung đoàn pháo binh bảo vệ thành Hà Nội của Pháp.Trong ảnh là các chiến sĩ cách mạng phải đeo gông.
Lực lượng làm binh biến là các bồi bếp và binh lính người Việt thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội nằm trong trung đoàn pháo binh bảo vệ thành Hà Nội của Pháp.Trong ảnh là các chiến sĩ cách mạng phải đeo gông.

Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, Đặng Đình Nhân tức "đội Nhân", Nguyễn Trí Bình, Dương Bé... tất cả có trên 10 người.
 Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, Đặng Đình Nhân tức "đội Nhân", Nguyễn Trí Bình, Dương Bé... tất cả có trên 10 người.

Nhóm có nhiệm vụ nội ứng bên trong: đầu độc 2.000 binh lính Pháp thuộc hai trung đoàn pháo binh và bộ binh Pháp đóng trong thành Hà Nội, rồi bắn pháo hiệu làm hiệu lệnh tiến công cho các cánh quân của nghĩa quân chống Pháp đánh vào thành Hà Nội. Trong ảnh là cảnh chuẩn bị hành quyết một chiến sĩ cách mạng.
Nhóm có nhiệm vụ nội ứng bên trong: đầu độc 2.000 binh lính Pháp thuộc hai trung đoàn pháo binh và bộ binh Pháp đóng trong thành Hà Nội, rồi bắn pháo hiệu làm hiệu lệnh tiến công cho các cánh quân của nghĩa quân chống Pháp đánh vào thành Hà Nội. Trong ảnh là cảnh chuẩn bị hành quyết một chiến sĩ cách mạng.

Tuy vậy, mật vụ Pháp đã biết trước một phần kế hoạch do nghi ngờ các hoạt động của bếp Hiên. Trong bữa tối ngày 27/6/1908, toàn bộ 200 lính Pháp được cho ăn cà độc dược và trúng độc, nhưng ngay sau đó quân Pháp báo động toàn thành và toàn bộ lính người Việt trong thành tham gia khởi nghĩa, chưa kịp bắn ba phát đại bác như đã định, thì đã bị tước vũ khí và bị bắt giam.
Tuy vậy, mật vụ Pháp đã biết trước một phần kế hoạch do nghi ngờ các hoạt động của bếp Hiên. Trong bữa tối ngày 27/6/1908, toàn bộ 200 lính Pháp được cho ăn cà độc dược và trúng độc, nhưng ngay sau đó quân Pháp báo động toàn thành và toàn bộ lính người Việt trong thành tham gia khởi nghĩa, chưa kịp bắn ba phát đại bác như đã định, thì đã bị tước vũ khí và bị bắt giam.

Tuy không có tên lính Pháp nào thiệt mạng vì độc dược, nhưng ngày hôm sau, Pháp đem ra xử và khép tội tử hình đối với 13 binh lính và bồi bếp người Việt.
Tuy không có tên lính Pháp nào thiệt mạng vì độc dược, nhưng ngày hôm sau, Pháp đem ra xử và khép tội tử hình đối với 13 binh lính và bồi bếp người Việt.
Ngày 8/7/1908, quân Pháp đưa 3 người đầu tiên: Đặng Đình Nhân, Nguyễn Trị Bình (Tư Bình), và Nguyễn Văn Cốc (Dương Bé) ra xử chém ở phía trước cột cờ Hà Nội. Trong ảnh là cảnh hành quyết tử tù dã man.
Ngày 8/7/1908, quân Pháp đưa 3 người đầu tiên: Đặng Đình Nhân, Nguyễn Trị Bình (Tư Bình), và Nguyễn Văn Cốc (Dương Bé) ra xử chém ở phía trước cột cờ Hà Nội. Trong ảnh là cảnh hành quyết tử tù dã man.

Chuẩn bị đưa ra xử chém.
Chuẩn bị đưa ra xử chém.

Ngày 3/8/1908 xử tử thêm ba người là: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân.
Ngày 3/8/1908 xử tử thêm ba người là: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân.

Ngày 29 thì hành quyết ba người nữa là: Lang Sẹo, Cai Xe và Cai Tôn.
 Ngày 29 thì hành quyết ba người nữa là: Lang Sẹo, Cai Xe và Cai Tôn.

Cuối cùng ngày 27//11/1908 thì bốn người cuối cùng bị chém: Đỗ Văn Đàm (Đồ Đàm), Đội Hổ, Lý Chánh, và Vinh. Sau đó quân Pháp bêu đầu của các nghĩa quân bị chém, nhằm ra oai và khủng bố tinh thần dân Việt...
Cuối cùng ngày 27//11/1908 thì bốn người cuối cùng bị chém: Đỗ Văn Đàm (Đồ Đàm), Đội Hổ, Lý Chánh, và Vinh. Sau đó quân Pháp bêu đầu của các nghĩa quân bị chém, nhằm ra oai và khủng bố tinh thần dân Việt...

... để làm thui chột sự phản kháng của người Việt yêu nước.
... để làm thui chột sự phản kháng của người Việt yêu nước.

Thủ cấp của Đội Cốc, Đội Bình và Đội Nhân bị xử trảm ngày 8/7/1908. Ngoài 13 người phải tội chém, Hội đồng đề hình tuyên án sáu người khác tử hình khiếm diện, tổng cộng là 19 bị tội phải chết. (Ảnh tư liệu và chụp lại tại Bảo tàng Hà Nội).
Thủ cấp của Đội Cốc, Đội Bình và Đội Nhân bị xử trảm ngày 8/7/1908. Ngoài 13 người phải tội chém, Hội đồng đề hình tuyên án sáu người khác tử hình khiếm diện, tổng cộng là 19 bị tội phải chết. (Ảnh tư liệu và chụp lại tại Bảo tàng Hà Nội). 

Sự thật về một viên cai ngục ở khám Chí Hoà

Ngón võ thường dùng của Vệ là dùng lựu đạn cay ném vào buồng giam, cho tù nhân sặc sụa vì hơi cay, thở không được, rồi mới xua quân vào đánh. Không chỉ tàn ác với các tù chính trị mà Nguyễn Văn Vệ cũng nổi tiếng về trò kiếm tiền từ buôn bán ma túy, cung cấp cho đám con nghiện bị bắt giam...

Vào buổi sáng ngày 2/6/1975, Trại giam Chí Hòa được nhận một người đặc biệt, đó là trung tá ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Vệ, từng hai “nhiệm kỳ” làm quản đốc Khám Chí Hòa. Khi cán bộ quản giáo dẫn Vệ về buồng giam chung với nhiều sĩ quan chế độ cũ (mà tất cả số này đều là những kẻ đã gây nhiều tội ác với nhân dân) thì Vệ đi qua buồng giam nào, nơi ấy xôn xao hẳn lên...

Tháp canh bên ngoài "lò bát quái".
 Tháp canh bên ngoài "lò bát quái".

Đám tù thường phạm, trong đó có không ít người từng bị giam ở Chí Hòa trong những năm trước la ó, đòi “đập chết thằng ác ôn”. Một phạm nhân tên là Lê Ngọc Lâm, can án tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép và giết người, bị Tòa án Sài Gòn cũ kết án 15 năm khổ sai, từng ở Chí Hòa trong những năm 70, và khi vào trại còn giết... thêm 4 phạm nhân nữa thì lồng lộn chửi rủa Nguyễn Văn Vệ và van lạy quản giáo... “Cán bộ cho tôi ra... Tôi đã giết 5 người rồi, thêm thằng này nữa là 6, rồi cán bộ bắn tôi ngay cũng được”.

Cũng phải nói thêm Lê Ngọc Lâm hay còn có biệt danh là Lâm “chín ngón” là tay giang hồ có số má ở miền Nam thời đó. Xung quanh việc Lâm cùng đồng bọn giết 4 tên giang hồ khác trong Trại giam Chí Hòa cũng có nhiều giai thoại. Số là khi ở ngoài xã hội, Lâm “chín ngón” và 4 gã kia có ân oán với nhau. Để trả thù, Lâm cố tình gây án rồi vào Chí Hòa và hối lộ cai ngục nhằm được giam chung với những “tử thù” rồi thanh toán đối thủ ngay trong nhà giam.

Chính vì “thành tích “bất hảo đó mà Lâm “chín ngón” được giới giang hồ vị nể, tôn làm đại ca. Lâm “chín ngón”, Đại Ca Thay là những “tên tuổi lớn” trong giới giang hồ thời chế độ Thiệu.

Thấy Lâm “chín ngón” hô hào, đám tù thường phạm gầm lên, chực phá chấn song để xông ra “ăn thua” với Nguyễn Văn Vệ. Trong ký ức của đám tù thường phạm có “thâm niên” ở Chí Hòa, họ không thể nào quên được vào một ngày cuối năm 1972, Nguyễn Văn Vệ được đưa từ Côn Đảo về, với nhiệm vụ là “lập lại trật tự ở Trung tâm Cải huấn Chí Hòa”.

Vừa nhận nhiệm vụ được 3 hôm, thì ngày 10/12, Vệ đích thân dẫn 100 cảnh sát dã chiến trang bị lựu đạn cay, dùi cui, gậy tre, mặt nạ... xông vào đàn áp tù chính trị trong các buồng giam. Cả bọn ác ôn như bầy thú dữ lao vào đánh đập không chút ghê tay đối với anh em tù chính trị. Thấy cảnh đàn áp quá dã man, số tù thường phạm cũng la ó phản đối, và thế là Nguyễn Văn Vệ lại hô đám cảnh sát “uýnh chết mẹ chúng nó đi”. Trận đòn ấy làm cho Lâm “chín ngón” bị ốm rệt cả tháng...

Sau đợt “lập lại trật tự” có quy mô lớn ấy, cứ mỗi tháng đôi ba lần, Vệ lại tổ chức đàn áp từng khu vực. Mà ngón võ thường dùng của Vệ là dùng lựu đạn cay ném vào buồng giam, cho tù nhân sặc sụa vì hơi cay, thở không được, rồi mới xua quân vào đánh. (Sau này, Lâm “chín ngón” cũng đã tố cáo toàn bộ những tội ác của Nguyễn Văn Vệ đối với tù chính trị cho Ban quản giáo Trại giam Chí Hòa). Nhưng không chỉ tàn ác với các tù chính trị mà Nguyễn Văn Vệ cũng nổi tiếng về trò kiếm tiền từ buôn bán ma túy, cung cấp cho đám con nghiện bị bắt giam với giá cao hơn bên ngoài từ 3 đến 5 lần.

Trong hồ sơ lưu giữ thì từ năm 1954 đến 1975, Khám Chí Hòa đã trải qua 10 đời cai ngục. Đó là: Gia (không rõ họ); Nguyễn Văn Vệ; Lê Quang Nhơn; Trần Văn Đắc; Trung tá Phạm Văn Luyện; thiếu tá Sáu; trung tá Lại Nguyên Tấn; trung tá Đức (không rõ họ); Bùi Văn Tâm và đại tá Phạm Văn Hải.

Trong số này, chỉ có 2 người làm ở đây lâu nhất đó là trung tá Luyện và Nguyễn Văn Vệ. Trung tá Luyện làm quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa lần thứ nhất là từ năm 1962 đến hết năm 1963, lần thứ hai là từ năm 1965 đến hết năm 1968, còn Nguyễn Văn Vệ lần thứ nhất làm từ năm 1956 đến năm 1960, lần thứ hai từ năm 1972 đến cuối năm 1973. Trong 10 viên cai ngục thì khét tiếng nhất chỉ có Nguyễn Văn Vệ.

Tại Trung tâm Quản lý hồ sơ nghiệp vụ của Tổng cục An ninh, các cán bộ làm công tác tra cứu hồ sơ đã lắc đầu thở dài khi nhìn tờ phiếu tôi đưa xin tra cứu vẻn vẹn có mấy chữ: Nguyễn Văn Vệ... Theo thông lệ, muốn tra cứu hồ sơ một con người thì phải có đầy đủ các thông số như họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ, số lính hoặc số phù hiệu cảnh sát; bố mẹ, vợ con... Tuy vậy sau 2 ngày tra cứu vất vả trong hàng ngàn người có tên Nguyễn Văn Vệ thì các anh chị cũng tìm thấy cho tôi hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ là quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa.

Một góc khám Chí Hoà hôm nay và viên cai ngục Nguyễn Văn Vệ.
 Một góc khám Chí Hoà hôm nay và viên cai ngục Nguyễn Văn Vệ.

Nhìn tập hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ, tôi rất ngạc nhiên bởi nó có độ dày khủng khiếp: khoảng hơn 400 trang. Hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ được lưu giữ cực kỳ tỉ mỉ, trong đó có từ những tấm giấy khai sinh ghi rõ Nguyễn Văn Vệ sinh ngày 12/7/1922; bằng tốt nghiệp bậc Thành chung rồi các loại quyết định nâng lương, đề bạt khen thưởng, thuyên chuyển công tác; các phiếu nhận xét về năng lực của Nguyễn Văn Vệ trong suốt gần 35 năm phục vụ từ chính quyền của Bảo Đại đến thời kỳ sau này. Rồi các bản tự khai của Nguyễn Văn Vệ trong thời gian đi học tập cải tạo và trớ trêu thay Nguyễn Văn Vệ, từng 2 lần làm quản đốc Khám Chí Hòa, 1 lần làm quản đốc nhà tù Côn Đảo lại quay trở lại Khám Chí Hòa từ ngày 2/6/1975 cho đến ngày 13/10/1982, tất nhiên lần này không phải với vai trò quản đốc mà với tư cách phạm nhân...

Nguyễn Văn Vệ sinh ra trong một gia đình đông anh em, là con út. Cha chết khi Vệ mới 11 tuổi. Vệ được đi học hết bậc trung học và giỏi tiếng Anh, Pháp. Tháng 8/1945, Nguyễn Văn Vệ hòa mình vào dòng người đi cướp chính quyền và tham gia “Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ”. Do có học nên Vệ được chọn làm nhân viên thư ký của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Nhưng đi theo Cách mạng chỉ được có 6 tháng, Vệ chịu không nổi và bỏ về nhà.

Suốt từ giữa năm 1946 đến 1952, Vệ làm nhân viên Công an ở Sóc Trăng, Châu Đốc. Sự mẫn cán và tính cứng rắn, thậm chí độc ác của Vệ đã được chính quyền phản động thời đó ghi nhận. Chính vì vậy đến năm 1953, Vệ đã là Trưởng ty Công an Bạc Liêu. Nhận xét trong quá trình công tác của Nguyễn Văn Vệ khi làm Trưởng ty Công an là: “Có thành tích triệt hạ những người kháng chiến tại Bạc Liêu...”. Không hiểu rằng, để có được những dòng nhận xét ấy Vệ đã sát hại bao nhiêu cán bộ và bao nhiêu người dân được hắn khép cho tội theo Việt Minh.

Đến năm 1954, thì Vệ gia nhập quân đội Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm. Trong bản tự thuật lý lịch của mình thời đó, Vệ đã tự nhận như sau: “Sống bình dị, vui vẻ, cởi mở với mọi người. Nhược điểm là tính nóng”. Năm 1956, Vệ được đưa về làm quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa thuộc Nha tổng quản đốc các trung tâm cải huấn - Bộ Nội vụ và được phong hàm thiếu tá.

Trong phiếu tính điểm sĩ quan ngày 22/8/1958 của Nguyễn Văn Vệ, có ghi: “Thiếu tá Nguyễn Văn Vệ là sĩ quan mẫn cán, tận tụy với nhiệm vụ, có những nhận xét chính xác về tình hình chung của cơ sở hành chính và Trung tâm Cải huấn Chí Hòa. Đã áp dụng những biện pháp mạnh mẽ và hữu hiệu để giữ gìn trật tự an ninh”. Về tư cách đạo đức tác phong thì: “Nêu cao tinh thần kỷ luật, có tác phong đúng đắn và hạnh kiểm tốt trong khi thi hành chức vụ. “Chấm điểm”, Vệ được 19,5 trên tổng số điểm là 20.

Người nào có mức điểm từ 18 trở lên thì được coi là sĩ quan ưu tú. Trong phiếu nhận xét gồm các mục: sức khỏe, y phục, tinh thần kỷ luật, nhân cách, tính nết, hạnh kiểm, can đảm, chính trực, kiến thức tổng quát, thông minh, trí nhớ, trí xét đoán thì tất cả đều được đánh giá là tốt. Khi làm quản đốc Chí Hòa, Vệ được chấm 19/20 điểm và được đánh giá là sĩ quan siêng năng, tận tâm, rất đáng được khích lệ và tưởng thưởng kịp thời.

Trong thời kỳ từ năm 1956 đến 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm mở các chiến dịch đàn áp khốc liệt những người kháng chiến, vì thế Khám Chí Hòa luôn chật ních tù chính trị. Và tất nhiên, những cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống chào cờ, chống tra tấn, nhục hình liên tục nổ ra. Để trừng phạt những người “cứng đầu”, Nguyễn Văn Vệ cho lập hẳn một khu kỷ luật, mà thực chất là nơi chuyên tra tấn tù nhân. Khu này nằm gần sát nơi mà sau này là pháp trường xử bắn anh Nguyễn Văn Trỗi.

Trong khu này có hai phòng khủng khiếp nhất, được người tù gọi là “phòng điện ảnh” và “phòng truyền hình”. Mỗi phòng diện tích chỉ khoảng 6m2, và vẫn sử dụng những chiếc còng có từ... thời Nhật. Tù nhân bị đưa vào đây buộc phải cởi hết quần áo, còng chân chung vào một thanh sắt dài và mặc cho muỗi đốt, rệp cắn mà không tài nào đuổi được, gãi được. Vệ đã cho lắp một loại còng mới của Mỹ.

Loại còng này quái gở ở mức là nếu người tù càng cựa quậy thì còng lại càng xiết chặt hơn. Sở dĩ có tên “điện ảnh, truyền hình” như vậy là khi người tù bị đưa vào đây, chúng đánh đập tra tấn đến muốn vỡ tung đầu óc, nhìn cái gì cũng thấy nhòe nhoẹt như xem phim đến đoạn cuối thay cuốn, hoặc màn hình bị nhiễu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng phòng giam này quét hắc ín đen kịt, khi đóng cửa lại là “tối như phòng “chiếu phim”, nên được gọi là “phòng điện ảnh”.

Tại Chí Hòa, dưới thời Nguyễn Văn Vệ, bọn cai ngục chuyên tra tấn tù nhân đã nâng mức tra tấn lên hàng “nghệ thuật”. Chúng tra khảo, đánh đập người tù bất kể là ngày hay đêm và đặt tên cho các ngón đòn là “đi tàu lặn” (dìm đầu người tù vào thùng phuy nước, cho gần chết ngạt rồi lôi ra, đạp lên bụng cho phọt nước); đi máy bay (treo người tù lên rồi hai tên đứng hai bên đấm, người tù văng từ bên nọ sang bên kia); “đánh tứ giác” (bốn tên đứng bốn góc và đánh người tù văng từ góc này sang góc khác)...

Các hình thức tra tấn đối với tù chính trị của bọn ác ôn Khám Chí Hòa thời này có những chuyện vượt xa sự tưởng tượng. Khám Chí Hòa có số lượng tù nhân đông nhất là vào năm 1972-1973. Các phòng giam lớn của Chí Hòa có diện tích gần 50 m2 nhưng luôn nhét khoảng 100 tù nhân, thậm chí có phòng nhét tới 180 người. Có 40 trẻ em bị bắt nhốt vào Chí Hòa do bị nghi là “Cộng sản”. Nguyễn Văn Vệ cho nhốt chung các trẻ em này vào với tù thường phạm, và thế là môi trường nhà tù đã biến các em trở thành những kẻ du đãng, giang hồ.

Nguyễn Văn Vệ trong thời gian làm chúa ngục Côn Đảo đã có “thành tích” đặc biệt là thẳng tay đàn áp những người tù chính trị. Dưới ách “cai trị” của Nguyễn Văn Vệ suốt từ năm 1965 đến 1968, tù nhân trên Côn Đảo đã phải chịu qua những ngày tháng khốc liệt nhất. Không thể tính được có bao nhiêu người đã chết dưới bàn tay của Nguyễn Văn Vệ. Và sự tàn ác này đã được chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận.

Thẻ căn cước của Nguyễn Văn Vệ.
 Thẻ căn cước của Nguyễn Văn Vệ.

Ngày 16/5/1968, Văn phòng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, có văn bản gửi Tổng trưởng Quốc vụ Sài Gòn về việc thăng cấp trung tá cho thiếu tá Nguyễn Văn Vệ. Số quân 42A-101-426. Văn bản có đoạn viết: “Trong dịp đi kinh lý tại Côn Sơn, thủ tướng chính phủ nhận thấy Nguyễn Văn Vệ là chỉ huy ưu tú, hoạt động đảm đang, đầy đủ tinh thần kỷ luật và trách nhiệm... yêu cầu đặc cách, thăng bậc trung tá cho Nguyễn Văn Vệ”. Văn bản này do luật sư Nguyễn Văn Lộc thừa lệnh thủ tướng ký. Đây là một trường hợp đặc biệt vì chưa bao giờ có chuyện thủ tướng yêu cầu Tổng trưởng Quốc phòng thăng hàm cho một sĩ quan.

Thế rồi, đến năm 1973, Thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Nội vụ Trần Thiện Khiêm lại có công văn gửi Tổng trưởng Quốc phòng yêu cầu: “Trong hai lần đảm nhiệm trọng trách tương đối khó khăn, tế nhị và phức tạp, trung tá Vệ luôn được xác nhận có biệt tài, có sáng kiến trong vấn đề cải huấn, duy trì hữu hiệu trật tự tại Công Sơn, là sĩ quan có tinh thần kỷ luật, đảm đang, mẫn cán tận tâm với chức vụ. Đề nghị thăng cấp đại tá cho trung tá Nguyễn Văn Vệ...”. Tuy nhiên, việc thăng cấp này không được thực hiện bởi vì Vệ bị An ninh quân đội nghi là người của thủ tướng, cho nên năm 1974, Vệ được giải ngũ về nhà và buôn bán chất đốt.

Trong bản tự nhận xét của mình sau này, Vệ tự nhận như sau: “Khi làm trưởng ty Công an Bạc Liêu tôi đã chống đối cách mạng khi bắt bớ những chiến sĩ hoạt động chống lại ngụy quyền. Khi làm Giám đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa cũng như Côn Sơn, tôi đã làm đời sống chính trị phạm đã cực khổ càng thêm cực khổ xuyên qua những hình phạt biệt giam, đàn áp khủng bố bằng hạn chế đi đứng dùng lựu đạn cay gây thương tích cho chính trị phạm, gián tiếp chịu trách nhiệm về những cái chết, về bệnh tật của chính trị phạm. Không xúc động trước cảnh đau khổ của chính trị phạm...”.

Còn theo đánh giá của Cơ quan An ninh thì: “Nguyễn Văn Vệ là tên chúa đắc lực của địch có nhiều tội ác trong cai quản, đàn áp, đánh giết tù nhân chính trị đồng thời rất gian ác xảo quyệt trong việc dùng mạng lưới chìm để theo dõi giám sát tù chính trị”.

TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU



Tin mới