Có bắt buộc phải chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản khi xuất cảnh định cư

(Kiến Thức) -Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trả lời về việc có bắt buộc phải chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản khi xuất cảnh định cư.

Hỏi: Gia đình Chị T sẽ xuất cảnh định cư tại nước ngoài, Chị T có cần phải bắt buộc phải chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản trước khi xuất cảnh hay không? Trong trường hợp, sau khi đã sang định cư tại nước ngoài, chị T muốn chuyển tiền bán bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình sang nước ngoàithì sẽ tiến hành những thủ tục nào?
Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trả lời vấn đề này như sau:
** Thông tin có tính chất tham khảo, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.
XỬ LÝ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRƯỚC KHI XUẤT CẢNH ĐỊNH CƯ NƯỚC NGOÀI
Căn cứ Điều 105 và Điều 237 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
Điều 105. Tài sản
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Điều 237. Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu
Quyền sở hữu chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác.
2. Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình.
3. Tài sản đã được tiêu dùng hoặc bị tiêu hủy.
4. Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu.
5. Tài sản bị trưng mua.
6. Tài sản bị tịch thu.
7. Tài sản đã được xác lập quyền sở hữu cho người khác theo quy định của Bộ luật này.
8. Trường hợp khác do luật quy định.
Như vậy, theo thông tin cung cấp, giả sử gia đình chị T xuất cảnh định cư nước ngoài một cách hợp pháp, Chị T không cần phải bắt buộc phải chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản trước khi xuất cảnh bởi vì pháp luật Việt Nam không có quy định nào về việc công dân Việt Nam khi rời Việt Nam để định cư ở nước ngoài thì phải chấm dứt các quyền đối với tài sản đã có trước khi xuất cảnh.
Nếu tài sản là nhà ở, Chị T có thể ủy quyền quản lý nhà ở, cho mượn nhà ở hoặc cho ở nhờ nhà ở. Việc ủy quyền quản lý hay cho mượn, cho ở nhờ nhà ở cần tuân thủ các quy định của Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn về điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch; điều kiện của các bên tham gia giao dịch về nhà ở; về trình tự; thủ tục giao dịch về nhà ở (giao dịch phải được lập thành hợp đồng có các nội dung cơ bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cấp xã tùy từng trường hợp).
Trường hợp sau khi đã định cư ở nước ngoài vài năm, chị T có nhu cầu chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình tại Việt Nam, tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật nhà ở và Luật đất đai hiện hành, các hợp đồng giao dịch bất động sản phổ biến bắt buộc phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thựcvà các bên trong hợp đồng hoặc người đại diện cần có mặt để ký kết hợp đồng, cụ thể: Hợp đồng tặng cho bất động sản, Hợp đồng mua bán nhà ở, Hợp đồng chuyển nhượng mua bán nhà ở thương mại, Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ... Trong tình huống chị T không có mặt ở Việt Nam để ký hợp đồng giao dịch bất động sản thì vẫn có thể thực hiện công chứng hợp đồng giao dịch bất động sản bằng cách như sau:
Bước 1:Chị T thực hiện thủ tục ủy quyền (liên quan đến bất động sản, tài sản) và thủ tục hợp pháp hóa văn bản ủy quyền tại các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước mình đang định cư cho một người đang ở Việt Nam để thay mặt chị T ký kết hợp đồng giao dịch bất động sản tại các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam.
Lưu ý vào thời điểm lập Hợp đồng ủy quyền tại Đại sứ quán Việt Nam ở nước nơi chị T định cư, đất ở/nhà ở thuộc quyền sở hữu của chị T không thuộc diệnNhà nước quản lý sử dụng, không bị tranh chấp, không bị thế chấp, không bị kê biên.
Bước 2: Người được ủy quyền mang hợp đồng ủy quyền, bản sao giấy tờ tùy thân (Hộ chiếu, CMND/ Thẻ công dân …) và giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, bất động sản liên quan đến nội dung ủy quyền đến các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam để thực hiện thủ tục nhận ủy quyền.
Bước 3: Người được ủy quyền mang hợp đồng ủy quyền, bản sao giấy tờ tùy thân (Hộ chiếu, CMND/ Thẻ công dân …) và giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, bất động sản liên quan đến nội dung ủy quyền đến các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam để thực hiện công chứng hợp đồng giao dịch bất động sản thay mặt chị T.
Sau khi hợp đồng giao dịch bất động sản đã được công chứng, chứng thực thì Người được ủy quyền có thể tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi chủ sở hữu tài sản tại văn phòng đăng ký đất đai theo quy định pháp luật.
CHUYỂN TIỀN BÁN BẤT ĐỘNG SẢN THUỘC QUYỀN SỞ HỮU SANG NƯỚC NGOÀI
Nếu Chị T được xác định địa vị pháp lý là người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định tại Luật Quốc tịch, Luật Đất đai và Luật Nhà ở hiện hành, Chị T được chuyển ra nước ngoài số tiền có nguồn gốc giao dịch bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình trên cơ sở xuất trình cho ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối các giấy tờ sau:
+ Văn bản uỷ quyền cho người đại diện hợp pháp để thực hiện thủ tục giao dịch bất động sản và thủ tục chuyển tiền ngân hàng tại Việt Nam.
+ Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (chứng minh thư, hộ chiếu thể hiện thông tin quốc tịch Việt Nam hoặc các giấy tờ xác nhận quốc tịch Việt Nam của cơ quan chức năng…).
+ Giấy tờ chứng minh đã được phép định cư ở nước ngoài.
+ Giấy tờ chứng minh nguồn tiền hợp pháp: Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê bất động sản, động sản (có công chứng). Hợp đồng tặng cho tài sản (có công chứng), Giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, bất động sản liên quanđến nguồn tiền ...
Lưu ý số tiền chuyển ra tối đa không quá số tiền thu được từ giao dịch bất động sản theo hợp đồng đã được công chứng.
Co bat buoc phai chuyen nhuong hay tang cho bat dong san khi xuat canh dinh cu
Luật sư Đặng Kim Ngân Hà. 

Xử lý thế nào với hành vi cạnh tranh không lành mạnh?

(Kiến Thức) - Theo Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang gây thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của Universal Network Connection (UNC). 

Luật sư Đặng Kim Ngân Hà – đại diện của Công ty Universal Network Connection (UNC) cho hay, Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong những quyền được pháp luật tôn trọng được quy định tại điều 3 Luật cạnh tranh 2018, cụ thể: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác".
Điều 45 nêu Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như sau: ''Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác.''

Xử lý thế nào với bài toán công nợ cho doanh nghiệp?

(Kiến Thức) -Công nợ luôn là câu chuyện mâu thuẫn dài kỳ không có hồi kết mà mọi doanh nghiệp đều phải đối mặt. 

 Một số doanh nghiệp thường e ngại đối đầu với khách hàng về các khoản công nợ phải thu, dẫn tới hệ quả liên đới là chính doanh nghiệp chậm trả công nợ tới nhà cung cấp và đối tác tương ứng, vì vậy công nợ phải thu, phải trả ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền, sức khỏe tài chính doanh nghiệp và làm “sứt mẻ” mối quan hệ làm ăn lâu dài với đối tác liên quan. Một số doanh nghiệp khác lại tìm đến “xã hội đen” để thuê đi thu hồi công nợ, từ đây chủ nợ trở thành tội phạm và vướng vào vòng lao lý khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, xử lý thế nào với bài toán công nợ cho doanh nghiệp một cách hợp pháp?

Luật sư Đặng Kim Ngân Hà nêu quan điểm về câu chuyện ''muôn hình vạn trạng bài toán thu hồi công nợ của doanh nghiệp'', theo đó: 

Thanh toán chậm, nhỏ giọt, cố tình lẩn tránh, thiếu trách nhiệm hoặc nợ xấu trong giao dịch thương mại khiến dòng tiền của doanh nghiệp bị tắc nghẽn và xảy ra các hệ quả liên đới ở một mức độ nhất định. Xét về góc độ hình sự, một số doanh nghiệp đã không lựa chọn các biện pháp thu hồi công nợ hợp pháp mà chọn thuê xã hội đen để gây sức ép lên tinh thần và tính mạng của con nợ nhằm mục đích là đòi được nợ.

Các hành vi này, tùy vào mức độ, tính chất có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về một trong các tội danh: Tội đe dọa giết người; Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác; Tội cướp tài sản hoặc Tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định Bộ luật Hình sự 2015, ví dụ cụ thể: Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không. Tội cướp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó. Không chỉ các đối tượng “xã hội đen”, người trực tiếp thực hiện hành vi đòi nợ phạm tội mà người đi thuê cũng có thể phạm tội với vai trò là đồng phạm. Vì vậy chủ nợ có thể sẽ vướng phải vòng lao lý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội Cướp tài sản.

Xét về góc độ thương mại, có những tình huống éo le đối với những doanh nghiệp đứng ở vị trí trung gian, hợp đồng giao dịch thương mại với khách hàng trong nước theo thỏa thuận được hiểu và chịu sự điều chỉnh của Pháp luật Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên mọi lĩnh vực liên quan tới hiệu lực, cách giải thích và thực hiện hợp đồng. Khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán, giới hạn “mức trần” phạt vi phạm theo quy định Luật Thương mại 2005 và Luật Xây dựng 2014 thì căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% hoặc 12%. Tuy nhiên, hợp đồng giao dịch thương mại với các nhà cung cấp và đối tác nước ngoài, theo thỏa thuận Luật điều tiết và toà án để giải quyết tranh chấp là của nước sở tại và pháp luật nước sở tại thường không giới hạn mức trần về phạt vi phạm hợp đồng khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.

Qua quá trình thực tiễn cố vấn pháp lý về các giao dịch có yếu tố nước ngoài, theo quan điểm của tôi, các đối tác đã tìm hiểu khá kỹ về pháp luật Việt Nam và hiểu được sự hạn chế mức trần phạt vi phạm thương mại. Do đó, ngay tại giai đoạn đàm phán, họ đã căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng và yêu cầu khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế phải chịu sự điều chỉnh và chi phối của Luật nước thứ ba như Anh và Singapore hoặc nước sở tại. Trong trường hợp các bên thuộc các nước đã tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên 1980), thì đối tác yêu cầu thỏa thuận thêm tại hợp đồng điều khoản không áp dụng Công ước Viên cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đó. Vì vậy, mức phạt vi phạm là do các bên thỏa thuận và không giới hạn mức trần theo pháp luật nước sở tại cho phép, ví dụ cụ thể theo thực tiễn đàm phán thương mại, tại Hợp đồng dịch vụ với đối tác nước ngoài, họ quy định cụ thể trong trường hợp phía doanh nghiệp tại Việt Nam vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì phải chịu mức phạt vi phạm 50% - 200% giá trị hợp đồng hoặc cao hơn nữa, đồng thời dự liệu trước một mức bồi thường cụ thể bằng tiền hay được tính theo một công thức nhất định thông qua điều khoản xác định mức bồi thường thiệt hại cụ thể để bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại.

Việc không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn và treo công nợ từ khách hàng trong nước khiến cho doanh nghiệp không đạt được mục đích chính của việc giao kết hợp đồng là thu lợi nhuận và hệ quả tiếp nối là doanh nghiệp còn phải đền bù hợp đồng với các nhà cung cấp thứ ba liên quan đến giao dịch, các chế tài đi kèm thường được áp dụng là tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng.

Trong trường hợp đã áp dụng các chế tài thương mại nhưng khách hàng vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà các bên không thể thương lượng, hòa giải được thì doanh nghiệp có quyền được kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp (Tòa án hoặc Trọng tài thương mại) để thu hồi công nợ theo hợp đồng, tiền lãi trên số tiền chậm trả, phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại (nếu có). Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

Xu ly the nao voi bai toan cong no cho doanh nghiep?
Luật sư Đặng Kim Ngân Hà. 

Cận Tết, Maserati Quattroporte rao bán lỗ gần 4 tỷ ở Sài Gòn

(Kiến Thức) - Chiếc xe sedan hạng sang thương hiệu Ý - Maserati Quattroporte GranLusso đời 2016 mới đây đã được chủ nhân đưa lên sàn xe cũ, xe hiện có được chất lượng vô cùng hoàn hảo kèm mức giá bán chỉ hơn 4 tỷ đồng.

Can Tet, Maserati Quattroporte rao ban lo gan 4 ty o Sai Gon

Mẫu xe sang Maserati Quattroporte đại diện của thương hiệu Ý tại Việt Nam trong phân khúc xe hạng F, bên cạnh các đối thủ như Mercedes-Benz S-Class, BMW 7-Series hay Audi A8. Tuy vậy, Quattroporte ít xuất hiện trên thị trường xe mới cũng như xe cũ, do sở hữu mức giá đề xuất cao hơn so những mẫu xe sang tới từ Đức.

Can Tet, Maserati Quattroporte rao ban lo gan 4 ty o Sai Gon-Hinh-2
Theo chia sẻ từ người đăng bán trên sàn xe cũ, đây là chiếc Maserati Quattroporte đời 2016, được đăng kí lần đầu tiên vào năm 2018. Tại Việt Nam, Maserati Quattroporte được phân phối với 2 phiên bản.  

Tin mới