Cuộc chiến tổn thất 5,1 triệu lượng vàng và sự khiếp sợ của quân Tống

Nhà Tống từng hai lần đem quân xâm lược nước ta, nhưng cuối cùng đều bị đánh cho tan tác, phải tháo chạy về nước trong tủi hổ.

Năm 1075, nhà Tống rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Để cứu vãn tình hình, vua Tống và tể tướng Vương An Thạch đưa ra kế sách hèn hạ: Xâm lược Đại Việt để giải quyết khủng hoảng trong nước.

Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: "Mùa xuân năm Bính Thìn (1076), nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó tướng, đem quân và 9 tướng hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp xâm lược nước ta".

Cuoc chien ton that 5,1 trieu luong vang va su khiep so cua quan Tong

Ảnh minh họa

Tháng 10/1076, Quách Quỳ làm thống soái, chỉ huy khoảng 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn quân tải lương chia thành 2 cánh thủy và bộ binh hợp thành gọng kìm xâm lược Đại Việt. Ý đồ của Quách Quỳ là sau khi đánh tan thủy quân của ta sẽ lên bờ hợp cùng bộ binh tấn công Thăng Long.

Lý Thường Kiệt đã đánh giá đúng tình hình và đưa ra những kế sách đánh giặc hợp lý. Kế hoạch của ông là phải đánh bại quân thủy, không cho chúng hợp với bộ binh.

Ông cho xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt (sông Cầu). Dưới sông, thủy quân ta tập trung trên 400 chiến thuyền đóng tại vùng Vạn Xuân (Phả Lại), sẵn sàng cơ động đánh địch theo các hướng.

Ngày 8/1/1077, địch theo hai cánh kéo vào nước ta. Liên tục bị quân ta chặn đánh, chúng di chuyển rất vất vả. Mười ngày sau, quân Tống mới đến bên bờ sông Như Nguyệt, nhưng không dám tấn công. Trong khi đó, cánh thủy binh của Dương Tùng Tiên bị tướng Lý Kế Nguyên của ta loại khỏi vòng chiến đấu.

Sau khi tập trung lực lượng, tiến hành trinh sát, đến đầu tháng hai, Quách Quỳ bắc cầu phao, tung kỵ binh vượt sông đánh vào trận địa của ta. Chúng đột phá qua dải phòng ngự tiến về Thăng Long, nhưng sau đó bị quân ta chặn lại. Quách Quỳ mở đợt tấn công thứ hai, nhưng cũng bị đánh bại.

Sau hai lần vượt sông thất bại, Quách Quỳ không dám nghĩ tới tiến công nữa, nhất quyết bám trụ chờ thủy binh và tuyên bố: "Ai bàn đánh sẽ chém". Chúng bố trí thành hai tập đoàn, Quách Quỳ ở bắc Thị Cầu và Triệu Tiết ở bắc Như Nguyệt chờ viện binh.

Bộ binh và kỵ binh không thể liên hệ được với thủy binh, lại bị chặn trước cửa sông Như Nguyệt, quân địch mất thế chủ động tiến công và bị vây hãm trong địa bàn hết sức bất lợi, lương thực thiếu thốn.

Nắm được tình thế của địch, Lý Thường Kiệt liên tục mở nhiều đợt công kích đánh vào trại của Triệu Tiết, Quách Quỳ. Ông cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía Nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ Nam quốc sơn hà. Tinh thần chiến đấu của quân sĩ lên rất cao. Nhận thấy thời cơ đến, ông cho quân vượt qua sông đánh thẳng vào trại giặc, tiêu diệt hơn một nửa quân xâm lược.

Lúc này, quân Tống ở thế cùng lực kiệt, nếu chống cự sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng nếu đầu hàng thì sợ mất thể diện của "thiên triều". Biết rõ ý đồ xâm lược của giặc đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt chủ động giảng hòa, thực chất là mở lối thoát cho quân Tống.

Đó chính là chủ trương kết thúc chiến tranh trong mềm dẻo của Lý thái úy, "dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu".

Được Lý Thường Kiệt mở đường, tháng 3/1077, Quách Quỳ rút quân về nước. Sử sách nhà Tống từng chép rằng: "Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau".

Cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của nhà Tống cuối cùng đã thất bại, làm tổn hại rất nhiều nhân mạng, tài sản. Theo Tống sử, chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược này lên tới 5,1 triệu lượng vàng. Từ đó về sau, trong khoảng 200 năm, các đời vua Tống không dám xâm phạm nước ta lần nào nữa.

Đến năm 1164, nhà Tống phải công nhận nền độc lập của nước ta (trước đây chỉ coi là Giao Chỉ quận, nay phải thừa nhận là An Nam quốc).

9 năm phải sống trong giam cầm, vua Tống vẫn sinh được 14 người con

Một vị vua mất nước sao có thể sinh được đến 14 người con trong vòng 9 năm bị bắt bớ giam cầm.

Hoàng đế là quân chủ của một quốc gia, chân mệnh thiên tử của một triều đình cũng như là khuôn thước của muôn vạn con dân.

Trên cương vị của một hoàng đế, đó phải là người có lòng can đảm hơn người, nắm giữ quyền hành trong tay, lại giỏi giang hết mực, nhìn thấu lòng người, mạnh mẽ và quyết đoán.

Cho dù phải đối diện kẻ thù, đối mặt với tình cảnh nước mất nhà tan cũng sẽ không khom lưng cuốn gối, đánh mất đi khí phách cần có của một bậc đế vương.

Tiếc thay, Tống Huy Tông Triệu Cát lại không phải là vị hoàng đế như vậy. Đường đường là quân chủ của một quốc gia, thế nhưng nhìn thấy cảnh xã tắc lâm nguy, hành động của Triệu Cát lại là ...tháo chạy.

Trước khi bỏ chạy, vẫn không quên gấp rút truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn, để không phải mang danh "vị vua mất nước".

Bị bắt làm tù binh vẫn ăn chơi hưởng lạc

Về sau, khi bị người Kim bắt làm tù binh, Triệu Cát chẳng những nhận cái chức danh đầy mỉa mai châm biếm "Hôn Đức Công" (tước vị phong cho một số vị vua bị phế truất) mà còn chấp nhận hàng loạt điều kiện mà ngườ Kim đưa ra.

Chưa dừng lại ở đó, trong thời gian bị giam cầm, ông ta vẫn thản nhiên lao đầu vào cuộc sống đầy cao lương mỹ tửu, ong bướm rập rìu. Chẳng thế mà ông ta đã sinh những 14 người con chỉ sau vẻn vẹn 9 năm.

Tranh chân dung Tống Huy Tông Triệu Cát.

Quay trở lại năm 1126, sau công nguyên (năm Tĩnh Khang đầu tiên), quân Kim tiến giáp thành, Triệu Cát lập tức truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn.

Tháng 3 năm sau, hai cha con họ đều bị người Kim bắt làm tù binh, một mạch đưa tới Ngũ Quốc thành (nay là Y Lan, Hắc Long Giang), bắt đầu những chuỗi ngày bị giam hãm tại nơi đây.

Do không trả nổi số tiền bồi thường cho người Kim, Tống Huệ Tông đang tâm dùng phi tần, công chúa của mình gán nợ cho nước Kim, trong đó đích nữ vương phi, con cháu hoàng thất mỗi người được quy ra giá là 1000 lượng vàng; các thứ nữ, thê thiếp còn lại mỗi người giá khoảng 500 lượng vàng.

Những cô gái hoàng thất vốn từng là lá ngọc cành vàng giờ đây lại trở thành nô lệ trong tay người Kim.

Trong khi đó, Tống Huy Tông ngang nhiên chấp nhận phong hiệu, nhà cao cửa rộng, ruộng đồng tươi tốt của người Kim ban cho.

Tuy rằng những thứ này còn cách xa so với cuộc sống khi còn trên ngai vàng, thế nhưng dù sao cũng vẫn có cơm no rượu say, sống những ngày tháng phiêu diêu tự tại.

Cứ như thế, ông ta đã sinh ra cả thảy 14 người con, 6 trai và 8 gái.

Song, sách "Tĩnh Khang bái sử tiên chứng", chương "Tống phù ký" (ghi chép lưu đày thời Tống) có viết:

Biệt hữu tử nữ ngũ nhân, cụ lục niên xuân sinh, phi hôn đức dận.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-2

Ảnh minh họa.

Ngoài 14 người kể trên, Tống Huy Tông còn có 5 người con. Mặc dù do thê thiếp của ông ta sinh thành nhưng không phải là con đẻ của Tống Huy Tông.

Hai chữ "biệt hữu" trong câu trên quả thực ý vị sâu xa, khiến người ta không khỏi suy ngẫm. Đối với một cựu hoàng đế, một người đàn ông mà nói, đây quả là một điều vô cùng nhục nhã.

Người Kim từng bước từng bước đưa ra những chiêu trò khiêu khích, hết lần này đến lần khác sỉ nhục Tống Huy Tông, cuối cùng cũng khiến cho tinh thần của ông ta suy sụp.

Vào ngày Giáp Tý, tháng 4 năm Thiên Hội thứ 13 (nước Kim), tức năm 1135, Tống Huy Tông ý thức được rằng bản thân không còn hy vọng trở về tổ quốc mà đau không thiết sống.

Ông ta vĩnh viễn nhắm mắt tại Kim quốc, hưởng thọ 54 tuổi. Kim Hi Tông cho an táng tại đất Hà Nam (nay là khu vực gần Lạc Dương, Hà Nam).

Trong những ngày tháng bị giam cầm, Tống Huy Tông viết rất nhiều câu thơ đầy những uất hận, ai oán, thê lương. Trong đó áng thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất phải kể tới "Tại bắc đề bích ":

Triệt dạ tây phong hám phá phi

Tiêu điều cô quán nhất đăng vi

Gia sơn hồi thủ tam thiên lí

Nhật đoạn thiên nam vô nhạn phi.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-3

Ảnh minh họa.

Dịch nghĩa:

Cuộc sống vinh hoa phú quý ngày xưa giờ đã tan thành mây khói

Nỗi đau mất nước

Nỗi nhục tù đày

Mọi thứ đều chỉ còn tiếng thở dài không nói hết.

Giữa mênh mông lạnh lẽo nơi đất Bắc, Tống Huy Tông chỉ có thể bày tỏ nỗi lòng đau thương với ngọn đèn leo lắt.

Người ta nói rằng, bi kịch của Triệu Cát vốn đã được định sẵn kể từ khi mới lọt lòng.

Đáng lẽ, ông có thể trở thành một thi nhân, họa sĩ, nhà thư pháp lẫy lừng, chẳng ngờ lại sinh ra trong gia đình bậc đế vương để rồi phải trở thành "đại hôn quân" trong mắt người đời.

Sách "Tống sử" viết một câu bình về Tống Huy Tông như sau:

Chư sự giai năng, độc bất năng vi quân nhĩ - nghĩa là giỏi giang nhiều việc, chỉ duy nhất việc làm vua là không có khả năng.  

Thua ở đất Việt, Quách Quỳ bị chế giễu “mang lợn đi đấu voi“

Đau buồn nhất cho Quách Quỳ là sau khi thua trận trước quân dân Đại Việt thì bị người dân Trung Quốc giễu cợt về tài cầm quân.  

Tượng binh Việt là nỗi khiếp đảm của quân Tống
Năm 1077, đại quân của Lý Thường Kiệt đại phá quân của Triệu Tiết, bao vây quân của Quách Quỳ. Tình cảnh của quân Tống đúng là cá nằm trên thớt vì đánh không được, thoái không xong. Thực vậy, trong cuốn "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam" có mô tả về tình cảnh quân Tống sau 2 lần tấn công vào phòng tuyến Như Nguyệt thất bại:

Đại tướng nhà Tống "nướng" 10 vạn quân ở Như Nguyệt vì thủy binh câu giờ

Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc.

Chiến thắng của Lý Kế Nguyên tạo bước ngoặt

Trong chiến thắng trước quân Nguyên Mông thì trận thủy chiến then chốt tại Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt. Danh tướng Trần Khánh Dư đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã khiến cho quân Nguyên không còn giữ được thế chủ động và liên tiếp mắc sai lầm. Còn trong chiến thắng của quân dân ta thời nhà Lý trước cuộc xâm lược của nhà Tống thì chiến thắng trong trận thủy chiến cũng gần Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt.

Tin mới