Đệ nhất danh tướng của Tào Tháo khiến Tôn Quyền suýt chết

Trong số “ngũ tử lương tướng” của Tào Ngụy, có một danh tướng được mệnh danh “bách chiến, bách thắng”, từng suýt chút nữa đã có thể lấy mạng Tôn Quyền.

Theo trang mạng Qulishi (Trung Quốc), tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung chỉ tập trung khắc họa, đề cao hình tượng anh hùng của các danh tướng nhà Thục Hán mà bỏ qua những chiến công của đại tướng Tào Ngụy Trương Liêu.
Sử sách Trung Quốc chép lại, xét trên phương diện mưu lược, thống lĩnh đại quân trên chiến trường thì khó có danh tướng dưới trướng Tào Tháo nào vượt qua được Trương Liêu.
Trương Liêu là một trong những dũng tướng thành công nhất thời Tam quốc.
Trương Liêu là một trong những dũng tướng thành công nhất thời Tam quốc. 
Cuốn Tam quốc chí của Trần Thọ xếp Trương Liêu vào danh sách “ngũ tử lương tướng” của Tào Ngụy, cùng với Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Cáp và Từ Hoảng.
Danh tướng “bách chiến, bách thắng”
Trương Liêu (169-222), tự Văn Viễn, là người huyện Mã Ấp, Nhạn Môn (nay là Sóc Châu, Sơn Tây, Trung Quốc).
Sự nghiệp của Trương Liêu thời trẻ khá lận đận. Ông giữ chức quan nhỏ trong thời gian ngắn, sau đó được Thứ sử Tinh Châu là Đình Nguyên mời về phụng sự.
Năm 189, Trương Liêu nhận lệnh vào kinh gặp Hà Tiến, tướng lĩnh nhà Đông hán. Hà Tiến cử Trương Liêu đi Hà Bắc chiêu mộ quân sĩ. Khi trở về Lạc Dương với 1.000 quân thì Hà Tiến đã bị hoạn quan Trương Nhượng sát hại.
Thủ hạ của Hà Tiến là Viên Thiệu đem quân vào hoàng cung báo thù, giết được một số hoạn quan. Lợi dụng tình hình rối loạn, Đổng Trác áp đảo Viên Thiệu và trở thành người thao túng triều chính. Trương Liêu khi đó đi theo Đổng trác.
Năm 192, Đổng Trác bị Lữ Bố giết. Trương Liêu lại theo Lữ Bố, làm chức kị đô uý. 6 năm sau, Tào Tháo giết chết Lữ Bố còn Trương Liêu cuối cùng cũng hàng Tào. Nhận ra Trương Liêu là người có tài nên Tào Tháo nhất quyết thu nhận, phong làm trung lang tướng.
Cuộc đời Trương Liêu gắn liền với những cuộc chiến dai dẳng. Trương Liêu cùng Tào Tháo nam chinh bắc chiến, tham gia thảo phạt Viên Thiệu, bình định Hà Bắc, chiếm Kinh Châu. Nhờ lập nhiều công trạng mà ông trở thành danh tướng nổi bật nhất của Tào Tháo.
Tào Tháo diệt Viên Thiệu, sau đó dẫn Trương Liêu theo tới Lê Dương chinh phạt liên quân Viên Đàm-Viên Thượng. Nhờ chiến thắng này mà Trương Liêu được Tào Tháo thăng làm Trung Kiên tướng quân.
Trương Liêu theo Tào Tháo trong mọi cuộc chiến, từ chiến dịch tấn công Âm An, đến đánh Nghiệp Thành, hạ Triệu Quốc, Thường Sơn.
Khi Trương Liêu trở về Nghiệp Thành, Tào Tháo đích thân nghênh đón và cho ngồi chung xe. Trương Liêu được phong làm Đãng Khấu tướng quân. Chiến công của Trương Liêu ngày càng “dày thêm” nhờ chiến thắng trước Lưu Bị ở Kinh Châu, bình định các huyện Giang Hạ. Ông được sắc phong Đô Đình Hầu.
Ngoài năng lực đã được chứng minh trên chiến trường, Trương Liêu còn được người đời sau đánh giá là chiến lược gia tài năng.
Năm 215, khi Tào Tháo muốn đích thân dẫn đại quân bắc phạt, Trương Liêu đã thẳng thắn can gián: “Hứa Xương là nơi đô hội trong thiên hạ. Thiên tử (Hán Hiến Đế) đã hùng cứ Hứa Xương. Nay thừa tướng nghìn dặm bắc phạt, nếu Lưu Biểu phái Lưu Bị đánh lén thì tình thế rất nguy hiểm”.
Không nằm ngoài dự đoán, Lưu Bị hiến kế để Lưu Biểu tấn công Hứa Đô nhưng Lưu Biểu không dám. Điều này đã thể hiện tầm nhìn xa của Trương Liêu.
Sử gia Trung Quốc về sau nhìn nhận, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung tập trung phác họa tướng lĩnh Thục Hán, đặc biệt là 3 huynh đệ Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi nên khiến cho các danh tướng Tào Ngụy hay Đông Ngô trở nên mờ nhạt.
Trên thực tế, trong hàng chục năm thống lĩnh đại quân chinh chiến, Trương Liêu gần như chưa từng bại trận, “công thủ song toàn”. Thành tích này dù là đại tướng nhà Thục Hán hay Đông Ngô cũng không làm được.
Người khiến Tôn quyền ôm hận
Trận đánh kinh điển, tô đậm thêm hình tượng Trương Liêu chính là cuộc đụng độ với Tôn Quyền trong trận Hợp Phì.
Năm 208, sau khi đại bại ở Xích Bích, Tào Tháo phái Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến đóng quân ở Hợp Phì. 7 năm sau, Tôn Quyền thống lĩnh tới 100.000 quân tấn công Hợp Phì. Lực lượng Tào Ngụy cố thủ khi đó chỉ có 7.000 người.
Tào Tháo khi đó đang chiến đấu ở Hán Trung, không thể chi viện cho Hợp Phì. Trong tình thế nguy cấp như vậy, Trương Liêu vẫn bình tĩnh. “Nếu ngồi đợi viện binh của Tào công đến nơi, thì quân ta đã bị Đông Ngô tiêu diệt. Chỉ có cách duy nhất là chủ động tấn công trước. Làm vậy có thể tiêu hao sĩ khí Đông Ngô, làm yên lòng quân, mới thủ được thành".
Sử sách Trung Quốc chép lại, ngay trong đêm đó, Trương Liêu dẫn 800 quân tinh nhuệ đột kích doanh trại Tôn Quyền. “Trương Liêu mặc giáp, tiên phong dẫn quân giết hàng chục kẻ địch, trảm 2 tướng”.
Bị tập kích bất ngờ, quân Đông Ngô rối loạn, Tôn Quyền không kịp trở tay. Sau khi xốc lại lực lượng, thấy Tào Ngụy có ít người nên mới ra lệnh phản kích. Trương Liêu thậm chí còn phá vòng vây Đông Ngô, giải cứu quân sĩ của mình rồi vừa đánh vừa lui quân.
Quân Đông Ngô tuy đông nhưng trước sức chiến đấu của Trương Liêu thì “không ai dám” cản bước.
Sau trận tập kích bất ngờ này, Tôn Quyền đã mất đi sự tự tin vốn có còn quân sĩ ai nấy đều hoang mang. Tôn Quyền vây hãm Hợp Phì 10 ngày không có kết quả đành phải rút lui.
Chưa dừng lại ở đó, biết được tin Tôn Quyền cùng các tướng lui về đến Tiêu Dao Tân Bắc, lực lượng chủ lực Đông Ngô đã rút về từ trước, Trương Liêu lập tức dẫn kỵ binh nghênh chiến.
Hai tướng Cam Ninh cùng Lữ Mông vất vả chống đỡ với Trương Liêu. Trong tình thế Tôn Quyền đối mặt với giữa sự sống và cái chết, tướng Đông Ngô là Lăng Thống dẫn theo 300 quân phá vòng vây Tào Ngụy.
Toàn bộ những người này đều chết trận, bản thân Lăng Thống bị thương nặng. Ông chỉ rút lui khi biết Tôn Quyền đã an toàn. Một thời gian ngắn sau đó, Lăng Thống qua đời bị bệnh tật ở tuổi 28.
Thất bại cay đắng ở Hợp Phì, tổn thất binh sĩ, tướng giỏi là những ký ức đau đớn mà Tôn Quyền suốt đời không quên.
Bảo vệ thành công Hợp Phì là chiến công nổi bật nhất của Trương Liêu mà Tào Tháo không ngớt lời ca ngợi. Sau này, khi đến Hợp Phì, Tào Tháo luôn nhắc lại trận chiến kinh điển của Trương Liêu.
Sau khi Tào Tháo mất năm 220, Trương Liêu vẫn được Tào Phi trọng dụng. Ông nhiều lần thống lĩnh đại quân giao chiến với Đông Ngô.
Năm 221, Tôn Quyền xua quân đánh Ngụy, biết tin Trương Liêu vẫn ra trận thì tỏ ra sợ hãi nói: “Trương Liêu tuy có bệnh nhưng vẫn dũng mãnh không thể cự được, nhất định phải cẩn thận”.
Khác với Tam quốc diễn nghĩa phác họa, Trương Liêu thực tế qua đời năm 222 vì bệnh tật, ở tuổi 54.
Ba năm sau, Tào Phi truy niệm chiến tích của ông ở Hợp Phì, hạ chiếu thư: “Chiến dịch Hợp Phì, Trương Liêu và Lý Điển chỉ dùng 800 bộ binh mà đánh bại 10 vạn quân địch, tự cổ dùng binh chưa có ai được như thế. Kẻ địch đến nay vẫn khiếp sợ, hai tướng Trương, Lý quả là nanh vuốt của triều đình”.

Phạm Xuân Ẩn và độc chiêu tạo vỏ bọc trong nghề tình báo

(Kiến Thức) - Sau này, khi trả lời tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải (tác giả cuốn Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời), ông Phạm Xuân Ẩn cực kỳ coi trọng việc xây dựng một vỏ bọc trong nghề tình báo. 

Tình báo lại dạy gián điệp

Vì sao Gia Cát Lượng quyết diệt Tào Ngụy cho đến chết?

Bắc phạt diệt Tào Ngụy là chiến lược quân sự lớn nhất trong cuộc đời Gia Cát Lượng và ông qua đời khi sự nghiệp thống nhất Trung Quốc vẫn còn dang dở.

Vi sao Gia Cat Luong quyet diet Tao Nguy cho den chet?
Tư Mã Ý luôn là đối thủ của Khổng Minh trong suốt 6 lần Bắc phạt. 
Sau trận Xích Bích lịch sử năm 208, cục diện tam quốc (thế chân vạc giữa 3 nước) hình thành. Nhà Thục Hán do Lưu Bị sáng lập chiếm được Kinh Châu và Ích Châu, tập trung xây dựng đất nước và củng cố binh lực.
Năm 223, Lưu Bị qua đời, để lại khoảng trống quá lớn mà con trai Lưu Thiện không thể khỏa lấp. Dưới thời Lưu Thiện, Gia Cát Lượng tấn công nhiều nhưng số lần giành chiến thắng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Điều này đã khiến người đời sau nghi ngờ về khả năng chỉ huy quân sự của Lượng.
5 lần Bắc phạt diệt Tào Ngụy trong giai đoạn 228-234 thất bại, quân Thục không đạt được mục tiêu đề ra. Sự nghiệp Bắc phạt Trung Nguyên, hưng phục Hán thất của Gia Cát Lượng kết thúc dở dang khi ông bị bệnh và mất trong lần thứ 6 ra Kỳ Sơn.
Việc Gia Cát Lượng quyết Bắc phạt, bất chấp thực tế quân Thục chưa đủ thực lực, đã để lại nhiều tranh cãi cho hậu thế.
Lấy công làm thủ
Theo trang mạng Lsgushi (Trung Quốc), Gia Cát Lượng khởi động chiến dịch Bắc phạt ngay từ năm 227, một thời gian ngắn sau khi Ngụy vương Tào Phi qua đời đột ngột ở tuổi 40. Nước Ngụy khi đó rơi vào hỗn loạn, tướng sĩ nghi kỵ lẫn nhau. Đây chính là cơ hội tốt nhất để chinh phạt, tiêu diệt nhà Ngụy, hướng tới thống nhất Trung Quốc.
Thục Hán nước nhỏ dân ít, địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công. Nếu như chinh phạt phương bắc, Gia Cát Lượng chỉ cần để lại một ít quân phòng ngự, còn lại dồn binh lực tấn công.
Kể từ khi nhà Ngụy đại bại trong trận Xích Bích và Tào Tháo qua đời, nhà Ngụy rơi vào thế phòng ngự, củng cố lực lượng.
Gia Cát Lượng là người có tầm nhìn sâu rộng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, ông chắc chắn hiểu rằng, một số vùng đất nước Thục nắm giữ, vốn nghèo nàn như Ích Châu thì "dù có nỗ lực hơn thì cũng đã phát triển tới cực hạn".
Vi sao Gia Cat Luong quyet diet Tao Nguy cho den chet?-Hinh-2
 Bắc phạt chính là cách để Gia Cát Lượng lấy công làm thủ.
Trong khi đó, nếu để cho nhà Ngụy có thời gian khôi phục, thì chuyện Tào Ngụy thống nhất miền Nam là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Một số nhà sử học Trung Quốc cho rằng, mục đích Bắc phạt của Gia Cát Lượng nhằm thổi bùng lên cuộc bạo loạn mới ở Trung Nguyên, ngăn cản đà phục hồi kinh tế của nhà Ngụy.
Ngay chính Khổng Minh cũng nhắc đến mục đích của bản thân trong "Long Trung đối sách", bằng câu nói "Thiên hạ có biến". Nếu thiên hạ không có xung đột, thì phải tìm mọi cách để tạo ra xung đột. Dựa trên quan điểm này, sớm muộn Gia Cát Lượng cũng phải Bắc phạt.
Trên thực tế, trong 5 lần tiến quân về phương bắc, quân Thục không ít lần giành được những chiến thắng chiến thuật nhưng không thể duy trì lợi thế.
Thất bại trong lần chinh phạt đầu tiên do Mã Tốc sai lầm để mất Nhai Đình; lần hai do quân lương thiếu hụt; lần thứ ba do Trương Bào hy sinh khiến Khổng Minh đổ bệnh.
Thất bại lần thứ tư do Lưu Thiện trúng kế phản gián của Ngụy, ra lệnh thu binh; lần thứ năm do Lý Nghiêm mắc lỗi khi vận chuyển lương thảo.
Nguyên nhân sâu xa nằm ở việc quân Thục Hán không thể đánh trận trường kỳ. Càng về sau, quân Ngụy do Tư Mã Ý chỉ huy kiên quyết theo đuổi chiến thuật phòng ngự chặt, cố thủ không ra đánh.
Tào Ngụy cũng khôn khéo tập kích vào tuyến đường vận chuyển lương thảo của Thục Hán, khiến cho cuộc chiến Thục-Ngụy chủ yếu biến thành giao tranh cướp bóc lương thảo.
Sau này, khi Gia Cát Lượng mất thì người kế nhiệm ông là đại tướng Khương Duy vẫn tiếp tục đường hướng quân sự này. 9 lần khởi binh đánh Ngụy cũng không đem lại kết quả khả quan.
Gia Cát Lượng không muốn Bắc phạt thành công?
Vi sao Gia Cat Luong quyet diet Tao Nguy cho den chet?-Hinh-3
Gia Cát Lượng đã không thể hoàn thành tâm nguyện thống nhất Trung Hoa. 

Tin mới