Giải mã bí ẩn ba khẩu thần công trục vớt ở biển Hà Tĩnh

Một tàu cá của Quảng Nam đã vô tình chỉ đường cho việc tìm lại báu vật bị chìm ở vùng biển Hà Tĩnh. Đó là ba khẩu thần công.

Ba khẩu thần công này cách đây 182 năm, quan Võ khố Trần Đăng Long - một người Quảng Nam, đã chỉ huy đúc và hiện nay trở thành bảo vật Quốc gia.
Tháng 8/2003 một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Quảng Nam, thả lưới trong vùng biển Hà Tĩnh cách Cửa Nhượng (huyện Cẩm Xuyên) hơn 30 hải lý, bất ngờ lưới bị mắc. Họ thuê một nhóm thợ lặn gỡ lưới và đưa thuyền đi nơi khác.
Tam vị “Bảo quốc An dân Đại tướng quân”
Nhóm thợ lặn phát hiện ra chiếc tàu cổ bị đắm - nguyên nhân của sự cố mắc lưới và thuê tàu trục vớt con tàu cổ. Khi trục vớt con tàu có 3 khẩu thần công. Chủ tàu lấy 1 khẩu, hai người thợ lặn mỗi người một khẩu.
Giai ma bi an ba khau than cong truc vot o bien Ha Tinh
 Một trong ba khẩu thần công được trục vớt ở Hà Tĩnh.
Chủ tàu trục vớt bán khẩu thần công của mình cho một lái buôn và người này chở sang Trung Quốc. Hai người thợ lặn đem hai khẩu thần công về lột lớp bạc bên ngoài bán phế liệu, phần còn lại đem cất. Rất may khẩu thần công thứ nhất chưa ra khỏi địa phận Hà Tĩnh đã bị công an tịch thu giao lại cho Bảo tàng Hà Tĩnh. Nhận ra giá trị của ba khẩu thần công, Bảo tàng đã đến thuyết phục hai người thợ lặn giao lại cho Bảo tàng. Qua nhiều lần vận động, thuyết phục, Bảo tàng đã nhận lại được 2 khẩu thần công sau khi bồi dưỡng 40 triệu đồng. Ba khẩu thần công được lưu giữ ở Bảo tàng Hà Tĩnh.
Theo nghiên cứu, 3 khẩu thần công được đúc bằng đồng vào năm Minh Mạng thứ hai (1821), nằm trong một bộ đặt tên là “Bảo quốc An dân Đại tướng quân” đánh số từ một đến ba. Hình dáng, kích thước và các hoa văn trang trí trên thân súng đều giống nhau. Mỗi khẩu nặng hơn 1,2 tấn, dài 2,43m, đường kính thân súng 40cm, đường kính nòng súng 11cm; giữa thân súng có hai quai chạm khắc hình rồng và hai tai tròn làm giá đỡ cho súng. Các hoa văn trên thân súng thể hiện các đề tài truyền thống như cúc dây, rồng chầu mặt nguyệt, đầu rồng, mây, chấm tròn, đường tròn đồng tâm…
Trên hai khẩu thần công số 1 và số 3 có hai bài minh cho biết mục đích của việc đúc súng là chúc mừng vua Minh Mạng lên ngôi và thể hiện uy quyền của quốc gia cũng như xua tan đi những điều không tốt. Riêng khẩu thứ 2 chữ bị mờ không đọc được.
Đặc biệt, mặt sau của cả ba khẩu thần công đều ghi: “Minh Mạng nhị niên tuế thứ Tân Tỵ cát nguyệt nhật chú” và “Vụ khố thần Trần Đăng Long phụng chú” Nghĩa là được đúc vào ngày lành tháng tốt năm Tân Tỵ, niên hiệu vua Minh Mạng năm thứ 2 và “Trần Đăng Long ở Vũ Khố vâng mệnh đúc”.
Năm 2006, Bảo tàng Hà Tĩnh kết hợp cùng Bảo tàng Lịch sử quốc gia phục chế hai khẩu thần công bị bóc lớp bạc, trả chúng về nguyên dạng.
Nhận thấy ba khẩu thần công “Bảo quốc An dân Đại tướng quân” là những hiện vật độc đáo mang nhiều ý nghĩa nên được chọn làm “bảo vật quốc gia” vào tháng 12.2013.
Nhiều người thắc mắc vì sao 3 khẩu thần công không vướng vào chiếc tàu nào khác mà lại vướng vào tàu cá của… Quảng Nam trong khi người đúc súng cũng chính là nhân vật đặc biệt của Quảng Nam!
Vũ khố Trần Đăng Long là ai?
Trần Đăng Long sinh năm 1760 tại làng An Quán, huyện Diên Phước (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Cha ông là Trần Đăng Khoa làm Xá sai ty Thủ hợp ở Bình Hòa (Gia Định) dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765). Ông theo cha vào sống ở đây.
Sách Đại Nam liệt truyện viết: “Long trạng mạo khôi ngô, có sức mạnh, trung hưng sơ tuổi 19 ra đầu quân, thường theo vua đi đánh giặc. Năm Giáp Thìn vua chạy sang Vọng Các, Long ốm không được đi theo, ẩn ở thôn quê, sợ bị giặc bắt, giả cách câm, giặc bắt được toan giết, vì câm được thoát…”.
Khi Nguyễn Ánh từ Vọng Các về Gia Định (1787), Trần Đăng Long luôn có mặt bên nhà vua, tham gia nhiều trận đánh, lập nhiều chiến công, được Nguyễn Ánh phong làm Phó đội Túc trực.
Nhật ký hành quân của Trần Đăng Long có những trận đánh lớn:
- Năm 1792 ông cùng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở Thị Nại.
- Năm 1794 theo Hoàng tử Cảnh trấn giữ Diên Khánh, sau theo Nguyễn Ánh đánh Thị Nại. Trận này dù bị thương vẫn cố sức đánh, được Nguyễn Ánh hết lời khen ngợi. Cuối năm lại cùng Nguyễn Văn Thành đánh vào cửa biển Đại Cổ Lũy cướp được rất nhiều binh thuyền của Tây Sơn.
- Năm 1799 giải vây thành Diên Khánh, đóng đồn ở núi Giang Nam, ngăn đường chạy của Tây Sơn. Sau đó cùng Nguyễn Văn Trương đánh Quảng Ngãi xong quay về lấy lại thành Quy Nhơn rồi đánh chiếm Diên Khánh.
- Năm 1801, cùng Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy… đem quân đánh cửa Thị Nại. Đây là trận “thủy chiến” dữ dội nhất của hai phía Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Phía Tây Sơn bị thiệt hại nặng. Trận này Trần Đăng Long góp công rất lớn.
Sau chiến thắng ở Thị Nại, ông cùng các tướng dẫn đại quân ra cửa biển Cổ Lũy rồi Đại Áp, Đại Chiêm. Đại quân đến đâu quân Tây Sơn tan vỡ đến đó, đại quân chiếm đồn ở Hội An, La Qua, Phú Chiêm. Quân Tây Sơn bỏ chạy, đại quân thu được nhiều chiến lợi phẩm. Ông tiếp tục tiến ra Đà Nẵng, lấy đồn Hải Vân, cửa Tư Hiền rồi tiến chiếm Phú Xuân.
Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long (1802), ông được triệu về kinh giữ nhiều vai trò quan trọng:
Năm 1803 được thăng Vệ úy vệ tiền nhất quân thị trung khâm sai thuộc nội cai cơ, theo Gia Long ra Bắc. Năm 1804 chỉ huy xây dựng kinh thành Huế. Năm 1809, được thăng Khâm sai thuộc nội vệ úy vệ tiền nhất quân thị trung. Năm 1817 được cử làm lưu thủ doanh Quảng Nam.
Khi Minh Mạng lên ngôi, ông tiếp tục được trọng dụng. Năm 1820, được triệu về Kinh, làm việc ở Vũ Khố thuộc bộ Binh trông coi việc binh nhung khí giới. Năm 1821 được nhà vua sai đúc ba khẩu “Bảo quốc An dân đại tướng quân”. Năm 1825 được thăng Phó Đô thống chế doanh Hậu quân Thần sách kiêm quản kho võ khố, chỉ huy 3 đội Tả, Hữu vệ và Hoàng Kiếm.
Năm 1826 làm giám thí trường thi Hội. Năm 1827 gia hàm Đô thống kiêm quản cả Tào chính.
Trần Đăng Long qua đời vì bị ốm năm 1828, thọ 69 tuổi, nhà vua thương tiếc cấp cho 200 lạng bạc, 5 cây gấm, cho đưa về quê an táng. Các con ông đều thành danh ở nghiệp võ, có người làm Phó Lãnh binh tỉnh Bắc Ninh.
Mộ ông hiện ở tại thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành, được công nhận là Di tích Lịch sử cấp tỉnh.

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía

(Kiến Thức) - Lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì vũ khí “thần cơ sang pháo” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại, khiến quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.

Vào thời nhà Hồ, thần cơ sang pháo và cổ lâu thuyền được coi là hai phát minh lớn về vũ khí do Hồ Nguyên Trừng - con trai cả của vua Hồ Quý Ly và là anh của vua Hồ Hán Thương sáng chế.
Kiểu đại bác đầu tiên của nước ta
Thuốc súng xuất hiện ở nước ta khá sớm, được sử dụng trong các lễ hội và cả trong quân sự. Từ cuối thế kỷ 14, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt. 
Thời ấy, đầu thế kỷ 15, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đo, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét.
Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ" - kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng thần công ở những thế kỷ sau này.
Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao. Cấu tạo súng thần công bao gồm: thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy, rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.
Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn viết: con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”. Loại súng này có nhiều cỡ: lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai... Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai... Tuy nhiên, Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “thần cơ pháo” - thực chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.
Quân Minh khiếp sợ trước hỏa lực thần cơ sang pháo

Sử sách chép rằng, quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Song, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ vẫn thất bại và không được dân ủng hộ. Vào thời điểm đó, giặc Minh đã bắt được những cỗ thần cơ sang pháo, rất ngạc nhiên và khâm phục vì thần cơ sang pháo có nhiều ưu thế hơn hẳn các hoả pháo của quân Minh, nên lập tức vận chuyển về nước họ.

Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên.
Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên. 

Minh sử chép: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ... Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến (Trương Tú Dân).

Lại nói nhà Hồ, vào năm 1407, 17.000 người Việt gồm gia quyến quan tướng họ Hồ và quân lính Đại Việt bị đưa về Nam Kinh, Trung Quốc. Vì tính mạng của cha (Hồ Quý Ly), Hồ Nguyên Trừng buộc phải phục vụ cho nhà Minh trong việc trông coi xưởng đúc súng. Vua Minh muốn Hồ Nguyên Trừng vận dụng phương pháp chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội mình.

Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ghi rằng: "Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".
Như vậy, dù Trung Quốc là nơi đầu tiên phát minh ra thuốc súng nhưng nơi phát minh ra đại bác lại là Việt Nam. Đến hôm nay, người Việt rất tự hào về súng thần công. Nhiều khẩu thần công sang pháo được bảo quản, trưng bày trong các bảo tàng lớn tại Hà Nội, Huế...
Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Ông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam với tư cách một nhà kỹ thuật quân sự, công trình sư lỗi lạc, ông tổ của nghề đúc súng thần công của người Việt. 
Ngoài súng thần cơ, Hồ Nguyên Trưng còn là nhà sáng chế của thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng) và là tổng công trình sư của nhiều công trình kiến trúc, thủy lợi hoành tráng thời Hồ.

Bí ẩn về 4 khẩu súng thần công ở Hà Giang

(Kiến Thức) - Không tư liệu, không người nghiên cứu nên 4 khẩu súng thần công đặt bên trái Bảo tàng tỉnh Hà Giang xem ra là những bí mật còn bỏ ngỏ.

Mời độc giả xem video Phát hiện khẩu thần công từ thế kỷ 19
“Rất nhiều khách từ các nơi đến tham quan muốn biết gốc tích, lai lịch và những câu chuyện xung quanh 4 khẩu súng thần công này như thế nào. Nhưng vì không có bất cứ một tư liệu gì liên quan nên chúng tôi rất ngại. Hiện vật quý đặt ở bảo tàng đấy, nhưng không có cơ sở khoa học gì nên chúng tôi rất mong được giải mã và mời các nhà khoa học, lịch sử đến nghiên cứu”, ông Âu Văn Hợp, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hà Giang khẩn thiết.

Tin mới