Khám phá thú vị: Trống đồng - “linh vật” được thờ cúng

(Kiến Thức) - Có đủ căn cứ để khẳng định cái mà ngày nay đa số mọi người vẫn gọi là trống đồng không đúng với bản chất khi nó được làm ra.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó là Ấn tín, vật thờ cúng thời Hùng Vương.

Giành lại quyền tự chủ phục hồi ấn tín cho Thần Đồng
Sở dĩ, sách Cựu Đường thư đưa ra sự kiện ấy là do ở Giao Chỉ Ngô Quyền sau trận chiến thắng đánh tan quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, Kỷ Hợi, năm thứ 1(939) vua bắt đầu xưng vương lập Dương Thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.       
Như vậy, phải đến khi dân tộc ta giành lại được quyền tự chủ, Nhà nước tự chủ giao cho các vị tiên triết khôi phục lại tinh thần vị Thần của vật hèm này, nhưng vì đã có tên đồng cổ trong sách Hậu Hán thư của Trung Quốc cho nên thư tịch của ta gọi là "Thần Đồng Cổ", nhà nước Đại Cồ Việt vua Đinh Tiên Hoàng đã tặng Thần Đồng Cổ cho làng Thượng Lâm huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông thờ trong đình làm thần Hoàng làng.            
Tương truyền, vị thần núi Thần Đồng từ tời Hùng Vường thường hiển linh giúp vua Hùng thắng trận thì nay đã từng hiển linh tiếp ứng cho các tướng lĩnh và nhà vua mỗi khi trên đường đưa quân đi dẹp giặc phương Nam. Chẳng hạn, năm 976 Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đi dẹp giặc phương Nam, khi đến sông Bà Hoà, huyện Tĩnh Gia gặp mưa to, gió lớn thuyền bè không đi được.Thần Đồng hiển linh báo mộng và giúp sức. Lê Hoàn chắp tay vái lạy, lập tức gió yên lặng, trời quang mây. Đoàn thuyền tiếp tực Nam tiến. Trận đó quân ta đại thắng. Về sau, sau khi lên ngôi, nhà vua đã đến ngôi đền tạ lễ và đề 2 câu thơ: "Long Đình tích hiển Tam Thai lĩnh/Mả thủy Thanh lai Bán nguyệt hồ".
Đến triều Lý, khi Lý Thái Tông còn là thái tử (Phật Mã), phụng mạng vua cha là Thái Tổ đem binh đi dẹp loạn ở phía Nam (1020), đến Trường Châu đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, Thái tử chợt thấy một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: "Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử sang đánh Phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ". Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy luôn. Hôm sau tiến quân đến đất Chiêm, trận ấy quả nhiên đại thắng. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, Thái tử bèn sai quân sửa sang lại miếu, lễ tạ, rồi xin rước thần vị về kinh đô lập đền thờ cạnh chùa Thánh Thọ, để làm vị thần giữ nước hộ dân.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm Mậu Thìn (1028) Tiên đế Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054). Nhưng ba vương định làm phản cướp ngôi, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc Ba vương: Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh sắp làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy vua liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm, cuộc biến đã được dẹp. Đến đây xuống chiếu giao cho Hữu ty tu sửa lại đền, vua phong cho thần là Minh chủ linh ứng chiêu cảm bảo hựu đại vương và tổ chức Hội thề trung hiếu cho các quan đại thần vào ngày 4 tháng 4 âm lịch. 
Đến ngày đó, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo trước thần vị, đọc lời thề rằng: Làm con bất hiếu làm tôi bất trung  xin thần minh giết chết. Các quan từ cửa Đông đi vào đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Hội thề Trung hiếu ở đền Thần Đồng kéo dài sang đời nhà Trần, đến khi nhà Minh xâm lược nước ta mới ngừng hoạt động.
Trống đồng được trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương.
 Trống đồng được trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương.
Giá trị của Thần Đồng trong truyền thống dân tộc
Thần Đồng, vị Thần linh thiêng có phép thần thông biến hóa phi thường, từng giúp tướng lĩnh và phò vua ở ngoài mặt trận, còn ở trong nội cung thần thường báo mộng cho nhà Vua biết để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước, cho nên TS Cao Huy Diệu (1) tiếm bình như sau:
Đại Vương lấy nghĩa danh thần non núi mà bẩm thụ sắc mệnh của Thượng Đế, uy đức lừng lẫy đã lâu trong trời đất, không cần đợi tới Thời Quân, Thế Chúa ca ngợi phong thưởng mới sáng tỏ sự linh dị đâu!
Duy có thương xót cõi đời chìm đắm, lo liệu bất minh, nếu cứ im lặng, không thèm chỉ cho đường mê, thì Thế Chúa trọn đời vẫn không tỉnh ngộ được. Cho nên thần hằng mượn giấc mộng để bảo lấy việc mở lối tự tâm. Đến khi ấy, Thế Chúa mới tôn đó, mới kính đó; mới lập đền thờ đó, và nhân đấy mà phong tặng cho  nữa.
Trái lại, những vị danh thần đương ở trong nhân hoàn, có làng nào lại không thờ? Có người nào lại không lạy cầu và dĩnh lễ? Nhưng thần cứ một mực mịt mờ, lặng lẽ để hưởng suông hương lửa của nhân gian, mà họa phúc không nghe, có điều không báo ứng và chỉ chuyên trang sức bề ngoài, làm lâu đài cho tráng lệ, nghi trượng cho rõ ràng, rồi các ông nghồi bật ngửa đó, thực ra để mà làm chi vậy chứ.
Như vậy, thần Đồng Cổ Việt Nam là vị Thần  Bảo quốc hộ dân, cho nên chỉ nước ta mới có đền thờ  vị Thần này và cũng vì thế, mà chỉ ở nước ta mới có loại cổ vật nhỏ gọi là minh khí làm Bùa hộ mệnh đeo vào cổ, hoặc để đầu giường nằm.
Phải chăng, từ xa xưa thời văn minh Đông Sơn, vật linh này được phát tán hoặc chuyển mẫu sang đúc ở các nước Đ.N.Á cổ, làm vật "linh" để thờ cúng và "ấn tín" của các Tù trưởng đương thời của các vùng đó. L. Bezacier nhà bác hộc Pháp sách Lịch sử nghiên cứu trống đồng ở châu Âu (1972) cho rằng, các nước ở Đ.N.Á đều có đặt vật linh Thần Đồng (trống đồng) thờ chung với các vị thần trong các đền.
Hiện nay, Thần Đồng Ngọc Lũ phiên bản Nhà nước ta đã tặng cho Liên Hợp Quốc, còn trong nước tại phòng khánh tiết của Quốc hội đã đặt Thần Đồng Ngọc Lũ trên tượng Hồ Chủ tịch.
Phơ-rít He-gơ, nhà học giả Áo, cố vấn của trường Viễn đông Bác Cổ (EEEO) và Hội nghị Nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất ở Hà Nội (1932), trong công trình Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1932): Khi đó, với 165 chiếc trống đồng ở các bảo tàng của châu Á, châu Âu và ở các sưu tập của tư gia, He-gơ đã khảo tả chi tiết về các yếu tố kết cấu hình dáng và vẽ lại hoa văn của từng chiếc trống. Trên cơ sở đó, ông phân trống đồng làm bốn loại, ký hiệu I, II, III, IV và ông coi trống đồng loại I ra đời đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam. 

Khám phá thú vị: Việt Nam là cái nôi của trống đồng

(Kiến Thức) - Theo lập luận của GS Nguyễn Văn Hảo, trống đồng ra đời ở Việt Nam và được người Trung Quốc mang về làm thêm một số họa tiết...

Hoa văn trống đồng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ
GS Nguyễn Văn Hảo, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ về nguồn gốc của trống đồng cổ có hàng chục năm nghiên cứu về các loại trống đồng, điều ông quan tâm nhiều nhất là chiều chuyển động của hoa văn trên trống đồng cổ. Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn có hai loại: Hoa văn hình học và hoa văn tả thực. Các họa tiết hoa văn hình học được tìm thấy trên đồ gốm của các văn hóa khảo cổ trước đó, đặc biệt trên đồ gốm của văn hóa Gò Mun. Khác với hoa văn hình học, hoa văn tả thực bắt nguồn từ cuộc sống, từ môi trường thiên nhiên mà cư dân Đông Sơn sinh sống. Hoa văn này đã ghi lại những cảnh múa và các con vật trên mặt trống đều chuyển động ngược hướng kim đồng hồ. 

Chi tiết bất ngờ về lăng mộ hoành tráng của Khang Hy

(Kiến Thức) - Trong khu lăng mộ có 1-0-2 của vua Khang Hy có tới 4 hoàng hậu, 48 phi tần và 1 hoàng tử tùy táng cùng.Vì sao vậy?

Một khu lăng mộ mai táng 1 vị hoàng đế, 4 bà hoàng hậu và 48 phi tần và 1 hoàng tử. Hình thức mai táng này chắc có một không hai trong lịch sử Trung Quốc, đó chính là Cảnh lăng của hoàng đế Khang Hy. Ảnh: Khu Cảnh lăng của hoàng đế Khang Hy.
Một khu lăng mộ mai táng 1 vị hoàng đế, 4 bà hoàng hậu và 48 phi tần và 1 hoàng tử. Hình thức mai táng này chắc có một không hai trong lịch sử Trung Quốc, đó chính là Cảnh lăng của hoàng đế Khang Hy. Ảnh: Khu Cảnh lăng của hoàng đế Khang Hy.
Hoàng đế Khang Hy tại vị 61 năm, sau khi băng hà được mai táng tại Đông lăng nay thuộc huyện Tuân Hóa, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Đông lăng gồm Hiếu lăng của hoàng đế Thuận Trị, Chiêu Tây lăng của Thái hậu Hiếu Trang, Dụ lăng của Càn Long, Định lăng của Hàm Phong, Huệ lăng của Đồng Trị và Cảnh lăng của Khang Hy.
Hoàng đế Khang Hy tại vị 61 năm, sau khi băng hà được mai táng tại Đông lăng nay thuộc huyện Tuân Hóa, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Đông lăng gồm Hiếu lăng của hoàng đế Thuận Trị, Chiêu Tây lăng của Thái hậu Hiếu Trang, Dụ lăng của Càn Long, Định lăng của Hàm Phong, Huệ lăng của Đồng Trị và Cảnh lăng của Khang Hy.
Nhìn từ trên cao, toàn cảnh Cảnh lăng hình bán nguyệt, các khu mộ được xếp theo địa vị từ cao đến thấp theo hướng từ trên cao xuống. Nơi cao nhất trong địa cung của Cảnh lăng là phần mộ của hoàng đế Khang Hi, Hiếu Thành hoàng hậu, Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu, Hiếu Ý Nhân hoàng hậu, Hiếu Cung Nhân hoàng hậu và Kính Mẫn hoàng quý phi. Ảnh: Cảnh lăng đại điện.
 Nhìn từ trên cao, toàn cảnh Cảnh lăng hình bán nguyệt, các khu mộ được xếp theo địa vị từ cao đến thấp theo hướng từ trên cao xuống. Nơi cao nhất trong địa cung của Cảnh lăng là phần mộ của hoàng đế Khang Hi, Hiếu Thành hoàng hậu, Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu, Hiếu Ý Nhân hoàng hậu, Hiếu Cung Nhân hoàng hậu và Kính Mẫn hoàng quý phi. Ảnh: Cảnh lăng đại điện.

Trong khu phi nguyên tẩm nội của Cảnh lăng có mai táng 48 vị phi tần và hoàng tử thứ 18 Dận Biểu. Chính giữa phi tẩm viên phần mộ của Ôn Hi quý phi và 47 vị phi tần còn lại gồm 11 phi: Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Ý Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi và 8 vị tần, 10 quý nhân, 9 thường tại và 9 đáp ứng. Kính Mẫn hoàng quý phi vốn được táng cùng các nàng phi tần, sau này được di táng vào địa cung của Cảnh lăng.
 Trong khu phi nguyên tẩm nội của Cảnh lăng có mai táng 48 vị phi tần và hoàng tử thứ 18 Dận Biểu. Chính giữa phi tẩm viên phần mộ của Ôn Hi quý phi và 47 vị phi tần còn lại gồm 11 phi: Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Ý Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi và 8 vị tần, 10 quý nhân, 9 thường tại và 9 đáp ứng. Kính Mẫn hoàng quý phi vốn được táng cùng các nàng phi tần, sau này được di táng vào địa cung của Cảnh lăng.
Trước đời vua Khang Hy, các cuộc hôn nhân thường mang tính chính trị. Rất nhiều hoàng hậu triều nhà Thanh là công chúa Mông Cổ. Đến Khang Hy, tình thế chính trị có sự thay đổi, Ngao Bái chuyên quyền lộng hành, kết bè kết đảng, can thiệp sâu vào triều chính. Duới sự sắp xếp của Hiếu Trang Hoàng thái hậu ngôi mẫu nghi thiên hạ đã chuyển từ Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Thị con gái của của gia tộc Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ sang Hách Xá Lí Thị, cháu gái của Sách Ni nhưng thực chất đây vẫn là một cuộc hôn nhân chính trị. Ảnh: Chân dung hoàng đế Khang Hy.
 Trước đời vua Khang Hy, các cuộc hôn nhân thường mang tính chính trị. Rất nhiều hoàng hậu triều nhà Thanh là công chúa Mông Cổ. Đến Khang Hy, tình thế chính trị có sự thay đổi, Ngao Bái chuyên quyền lộng hành, kết bè kết đảng, can thiệp sâu vào triều chính. Duới sự sắp xếp của Hiếu Trang Hoàng thái hậu ngôi mẫu nghi thiên hạ đã chuyển từ Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Thị con gái của của gia tộc Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ sang Hách Xá Lí Thị, cháu gái của Sách Ni nhưng thực chất đây vẫn là một cuộc hôn nhân chính trị. Ảnh: Chân dung hoàng đế Khang Hy.
Năm 1665, hoàng đế Khang Hy 12 tuổi đã tiến hành đại lễ kết hôn long trọng với Hách Xá Lý Thị 13 tuổi. Đây là cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị, nhưng tuổi của hoàng thượng và hoàng hậu cũng tương đồng, Ngao Bái lộng hành chấp chính nên thường bất kính với hoàng thượng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó hoàng thượng và hoàng hậu đã nương tựa vào nhau và nảy sinh tình cảm. Kết hôn không lâu thì sinh được hoàng tử nhưng hoàng tử chỉ sống được đến 4 tuổi. Ảnh: Chân dung Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Hách Xá Lý Thị.
 Năm 1665, hoàng đế Khang Hy 12 tuổi đã tiến hành đại lễ kết hôn long trọng với Hách Xá Lý Thị 13 tuổi. Đây là cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị, nhưng tuổi của hoàng thượng và hoàng hậu cũng tương đồng, Ngao Bái lộng hành chấp chính nên thường bất kính với hoàng thượng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó hoàng thượng và hoàng hậu đã nương tựa vào nhau và nảy sinh tình cảm. Kết hôn không lâu thì sinh được hoàng tử nhưng hoàng tử chỉ sống được đến 4 tuổi. Ảnh: Chân dung Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Hách Xá Lý Thị.
Sau khi diệt được Ngao Bái, Khang Hy đích thân lo việc triều chính và cũng không cần nhờ đến thế lực của gia tộc Khoa Nhĩ Thấm nữa. Cởi được nút thắt chính trị thì tình cảm giữa hoàng thượng và hoàng hậu cũng tự nhiên không còn được thắm thiết như xưa nữa. Ảnh: Chân dung Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Hách Xá Lý Thị.
 
Sau khi diệt được Ngao Bái, Khang Hy đích thân lo việc triều chính và cũng không cần nhờ đến thế lực của gia tộc Khoa Nhĩ Thấm nữa. Cởi được nút thắt chính trị thì tình cảm giữa hoàng thượng và hoàng hậu cũng tự nhiên không còn được thắm thiết như xưa nữa. Ảnh: Chân dung Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Hách Xá Lý Thị.
Giai nhân nơi hậu cung của Khang Hy cũng ngày nhiều hơn. Trong đám phi tần có nàng Nữu Hỗ Lộc Thị xuất thân danh giá, thông minh lanh lợi, yêu thích đọc sách, tố chất văn hóa ưu tú trong nàng ngày càng được bộc lộ. Nàng lại là người rất giỏi đối nhân xử thế nên ngày càng được Khang Hy yêu mến. Ảnh minh họa.
 Giai nhân nơi hậu cung của Khang Hy cũng ngày nhiều hơn. Trong đám phi tần có nàng Nữu Hỗ Lộc Thị xuất thân danh giá, thông minh lanh lợi, yêu thích đọc sách, tố chất văn hóa ưu tú trong nàng ngày càng được bộc lộ. Nàng lại là người rất giỏi đối nhân xử thế nên ngày càng được Khang Hy yêu mến. Ảnh minh họa.
Ngoài ra còn có nàng Đông Giai Thị là em họ của Khang Hy. Ông hoàng làm chuyện gì cũng nghe theo lời nàng. Nhưng nếu nói về việc đối xử chốn hậu cung thì Khang Hy đều rất tốt với các phi tần. Ảnh minh họa.
 Ngoài ra còn có nàng Đông Giai Thị là em họ của Khang Hy. Ông hoàng làm chuyện gì cũng nghe theo lời nàng. Nhưng nếu nói về việc đối xử chốn hậu cung thì Khang Hy đều rất tốt với các phi tần. Ảnh minh họa.

Tuy các giai nhân bên cạnh càng ngày càng nhiều, nhưng Khang Hy vẫn dành nhiều tình cảm và sự trân trọng nhất cho người vợ kết tóc xe tơ từ thưở ban đầu. Sau khi Ngô Tam Quế mưu phản, Khang Hy đối mặt với một áp lực không hề nhỏ. Đúng lúc này Hách Xá Lý Thị lại lâm bồn. Nhưng bất hạnh thay, vì sinh hoàng tử nàng đã không qua khỏi. Ảnh: Chân dung vua Khang Hy lúc trẻ.
 Tuy các giai nhân bên cạnh càng ngày càng nhiều, nhưng Khang Hy vẫn dành nhiều tình cảm và sự trân trọng nhất cho người vợ kết tóc xe tơ từ thưở ban đầu. Sau khi Ngô Tam Quế mưu phản, Khang Hy đối mặt với một áp lực không hề nhỏ. Đúng lúc này Hách Xá Lý Thị lại lâm bồn. Nhưng bất hạnh thay, vì sinh hoàng tử nàng đã không qua khỏi. Ảnh: Chân dung vua Khang Hy lúc trẻ.
Hỷ sự bỗng chốc thành tang sự, Khang Hy đau lòng khôn xiết, không màng đến chiến sự trước mắt cũng chả còn tâm trí lâm triều trong 5 ngày mà chỉ lo tổ chức tang lễ cho hoàng hậu vô cùng long trọng. Linh cữu của nàng được quàn tại Tử cung trong suốt 25 ngày thì Khang Hy đích thân khóc tang 20 ngày đủ nói hết tình cảm dành cho nàng vô cùng sâu sắc. Ảnh: Chân dung vua Khang Hy. Để tưởng nhớ người vợ yêu, khi hoàng tử chưa đầy 2 tuổi ông đã lập làm thái tử, nhưng sau này thái tử bất tài bị Khang Hy phế truất. Khi phế truất Khang Hy đã khóc và mắng hoàng tử rằng “sinh nhi khắc mẫu”, cho thấy trai tim ông luôn dành một vị trí rất quan trọng cho người vợ hiền của mình.
 Hỷ sự bỗng chốc thành tang sự, Khang Hy đau lòng khôn xiết, không màng đến chiến sự trước mắt cũng chả còn tâm trí lâm triều trong 5 ngày mà chỉ lo tổ chức tang lễ cho hoàng hậu vô cùng long trọng. Linh cữu của nàng được quàn tại Tử cung trong suốt 25 ngày thì Khang Hy đích thân khóc tang 20 ngày đủ nói hết tình cảm dành cho nàng vô cùng sâu sắc. Ảnh: Chân dung vua Khang Hy. Để tưởng nhớ người vợ yêu, khi hoàng tử chưa đầy 2 tuổi ông đã lập làm thái tử, nhưng sau này thái tử bất tài bị Khang Hy phế truất. Khi phế truất Khang Hy đã khóc và mắng hoàng tử rằng “sinh nhi khắc mẫu”, cho thấy trai tim ông luôn dành một vị trí rất quan trọng cho người vợ hiền của mình.
Xưa nay tình cảm của hoàng đế vốn không dành cho một người nên Khang Hy cũng không phải là ngoai lệ. Trong đám phi tần có người mới 11, 12 tuổi, người nào lớn nhất cũng chưa qua 16 tuổi, có nàng ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Nếu tính từ cái chết đầu tiên của Tặng Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Tác Đặc Thị vào năm thứ 9 Khang Hy đến Thuần Di Hoàng quý phi cuối cùng vào năm 33 đời Càn Long thì đám hậu phi của Khang Hy đã sống qua 3 đời Khang-Ung-Càn tổng cộng là 99 năm. Trong đám hậu phi của Khang Hy có đến 4 cặp chị em gái, trong đó Hiếu Ý Nhân hoàng hậu và các em gái Đông thị quý phi lại là em họ gần của Khang Hy, đây là trường hợp rất hiếm gặp trong lịch sử các triều đại của Trung Quốc.
 Xưa nay tình cảm của hoàng đế vốn không dành cho một người nên Khang Hy cũng không phải là ngoai lệ. Trong đám phi tần có người mới 11, 12 tuổi, người nào lớn nhất cũng chưa qua 16 tuổi, có nàng ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Nếu tính từ cái chết đầu tiên của Tặng Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Tác Đặc Thị vào năm thứ 9 Khang Hy đến Thuần Di Hoàng quý phi cuối cùng vào năm 33 đời Càn Long thì đám hậu phi của Khang Hy đã sống qua 3 đời Khang-Ung-Càn tổng cộng là 99 năm. Trong đám hậu phi của Khang Hy có đến 4 cặp chị em gái, trong đó Hiếu Ý Nhân hoàng hậu và các em gái Đông thị quý phi lại là em họ gần của Khang Hy, đây là trường hợp rất hiếm gặp trong lịch sử các triều đại của Trung Quốc.
Khang Hy tổng cộng có bao nhiêu phi tần ở chốn thâm cung trên sử sách ghi chép không thống nhất, nhưng theo “Khang Hi toàn truyện” thì quý nhân có 49 người, hậu phi được sắc phong trong sổ sách có 67 người còn những người mang thân phận thấp kém hơn như “Đáp ứng”, “Thường tại”có khoảng hơn 200 người. Tuy đa tình nhưng đối với các phi tần Khang Hy vẫn rất chân tình. Khi phải xuất cung ông thường viết thư hoặc mua đặc sản sai người mang về cung.
 Khang Hy tổng cộng có bao nhiêu phi tần ở chốn thâm cung trên sử sách ghi chép không thống nhất, nhưng theo “Khang Hi toàn truyện” thì quý nhân có 49 người, hậu phi được sắc phong trong sổ sách có 67 người còn những người mang thân phận thấp kém hơn như “Đáp ứng”, “Thường tại”có khoảng hơn 200 người. Tuy đa tình nhưng đối với các phi tần Khang Hy vẫn rất chân tình. Khi phải xuất cung ông thường viết thư hoặc mua đặc sản sai người mang về cung.
Thậm chí, hoàng đế này còn viết thư kể chuyện vui trên đường cho các nàng cảm thấy không buồn chán chốn thâm cung. Vào những năm cuối đời, ông đã lo sắp xếp ổn thỏa cuộc sống cho các phi tần. Ông hạ lệnh những phi tần có con trai về già sẽ được sống cùng con trai. Cách sắp xếp này đã phá vỡ tiền lệ các phi tần phải chết già trong cung sau khi hoàng đế băng hà. Trước khi hoàng đế băng hà, hai vị hoàng hậu đã được an táng trong địa cung của Cảnh lăng, các phi tần của ông cũng lần lượt được an táng tại đây. Có lẽ do tình cảm lúc tại vị của ông dành cho phi tần mà sau khi băng hà ông vẫn muốn các phi tần ở bên mình mà Cảnh lăng đã trở thành khu lăng mộ đông phi tần như vậy.
 Thậm chí, hoàng đế này còn viết thư kể chuyện vui trên đường cho các nàng cảm thấy không buồn chán chốn thâm cung. Vào những năm cuối đời, ông đã lo sắp xếp ổn thỏa cuộc sống cho các phi tần. Ông hạ lệnh những phi tần có con trai về già sẽ được sống cùng con trai. Cách sắp xếp này đã phá vỡ tiền lệ các phi tần phải chết già trong cung sau khi hoàng đế băng hà. Trước khi hoàng đế băng hà, hai vị hoàng hậu đã được an táng trong địa cung của Cảnh lăng, các phi tần của ông cũng lần lượt được an táng tại đây. Có lẽ do tình cảm lúc tại vị của ông dành cho phi tần mà sau khi băng hà ông vẫn muốn các phi tần ở bên mình mà Cảnh lăng đã trở thành khu lăng mộ đông phi tần như vậy.












Tin mới