Khi đàn ông bị bắt về làm... chồng

Nhiều người đàn ông bị “bắt” về làm chồng và nếu ở nhà vợ mà phạm lỗi, sẽ bị trả về “nhà sản xuất” với hai bàn tay trắng.

Khi đàn ông bị bắt về làm... chồng
Nhưng thực tế, phần lớn các ông chồng suốt ngày ở nhà ăn chơi, nhậu nhẹt, trong khi vợ họ còng lưng trên nương rẫy.
Trong khi vợ leo núi làm rẫy, chồng ở nhà ăn nhậu.
 Trong khi vợ leo núi làm rẫy, chồng ở nhà ăn nhậu.
Người dân tộc Raglai chủ yếu sinh sống ở các huyện miền núi tỉnh Ninh Thuận. Khi “ưng cái bụng” chàng trai nào trong làng, cô gái Raglai mới lớn, thậm chí mới 12-13 tuổi cũng có thể bắt anh chàng về làm chồng, không kể gần xa, họ hàng…
Bắt chồng từ tuổi 13
“Mình là nhà gái, đi bắt con người ta về làm cho nhà mình thì phải chịu bỏ tiền ra chứ. Công người ta nuôi con mấy chục năm mà”.
Ông Ka Tơ Toàn
Những ngày này, xung quanh con đường nhựa ngoằn ngoèo dẫn vào xã nghèo Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, cây rừng bắt đầu đâm chồi, nảy lộc sau mùa khô trụi lá. Cái nắng lúc gần trưa vẫn chói chang, hừng hực.
Con đường bê tông rộng chừng hơn một mét dẫn vào thôn bản có nhiều đoạn dốc ngắn nhưng khá gắt. Đường vắng tanh, không một bóng người. Vị Chủ tịch xã giới thiệu cho chúng tôi một anh tên Hoa chuyên mảng văn hoá xã dẫn đến nhà một số người già. Vừa đi anh vừa kể về phong tục tập quán của địa phương. Anh nói nơi đây vẫn còn quá nhiều hủ tục, tảo hôn là chuyện bình thường nhưng khó xử lý. “Ở khu vực ngoài này còn đỡ, chứ mấy thôn ở sâu trong núi vẫn còn nhiều lắm, đa số là tảo hôn, con gái 12-13 tuổi đã bắt chồng rồi”, anh Hoa nói.
Một góc làng Do, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Ngô Bình.
Một góc làng Do, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Ngô Bình. 
Anh Hoa dẫn chúng tôi tìm đến ông Ka Tơ Toàn (SN 1953). Giữa trưa nắng, ông Toàn ngồi chẻ mây đan gùi trước cửa. Thấy khách lạ vào hỏi thăm, ông dừng tay châm ly trà. Căn nhà cấp bốn chừng 40m2 của ông được Nhà nước xây cho cách đây chưa lâu, bên trong là bốn đứa cháu chừng 7-8 tuổi quần áo xộc xệch đang chơi đùa, không đứa nào được đến trường.
Ông nói: “Mẹ chúng nó đi rẫy rồi, bố thì đang nhậu ở nhà bên”. Xung quanh nhà là những căn nhà gỗ lụp xụp của 7 người con của ông. “Bắt chồng hả? Ở đây nhà nào chả thế, mấy đứa con của tôi cũng bắt từ khi 16 tuổi, nhưng làng nào bắt làng đó thôi, chứ đi sang làng khác họ đòi thách ghê lắm”, ông Toàn nói. Theo ông, ở đây, nhiều đứa trẻ mới 13-14 (không đi học) đã đòi gia đình cho đi bắt chồng; cảnh người mẹ 14-15 tuổi địu đứa trẻ sơ sinh trên vai đi rẫy không phải hiếm, người lạ nhìn thấy tưởng chị trông em.
Tiêu chí chọn rể của người Raglai nơi đây là khỏe mạnh, biết làm rẫy, săn bắt, siêng năng, không rượu bia, không quậy phá. Theo ông Toàn, khi đôi trai gái đã thích nhau rồi thì bắt buộc gia đình phải tổ chức đám cưới, nếu không, có khi cả hai hái lá ngón ăn.
Nhớ lại chuyện một nữ sinh 16 tuổi ở sát nhà mình ăn lá ngón tự tử, ông Toàn nói: “Ở đây, tự tử nhiều lắm rồi, con gái cứ ưng thằng đàn ông nào mà gia đình không cho lấy là tìm cách tự tử à. Chúng thích nhau là phải cho cưới cho dù là anh em họ gần. Cách đây không lâu, bên cạnh nhà tôi có đứa bắt chồng là anh em họ mới một đời”, ông kể.
Một trong những mái nhà lụp xụp của con già làng Chammalé Âu. Ảnh: Ngô Bình.
Một trong những mái nhà lụp xụp của con già làng Chammalé Âu. Ảnh: Ngô Bình. 
Ông Toàn cho biết, nữ sinh ăn lá ngón tự tử cũng là con cháu trong dòng họ của ông. Hồi đó, nữ sinh này thích một chàng trai ở làng bên, nhưng gia đình không cho cưới, cô gái này bỏ nhà đi một thời gian để dọa gia đình, nhưng vẫn không được đồng ý cho bắt chồng.
Mấy ngày sau, cô gái cùng người yêu lên núi hái lá ngón ăn. “Ở đây, mỗi năm có cả chục vụ tự tử bằng lá ngón vì đòi bắt chồng mà không được phép. Có những đứa 13-14 tuổi cũng đòi đi bắt chồng, rồi khi bị cản ngăn, chúng lên núi hái lá ngón tự tử”, ông nói.
Vợ leo núi, chồng bê bết rượu chè
Xế chiều, chúng tôi trở lại một tiệm tạp hóa ở thôn Do, xã Ma Nới. Tại đây, nhiều chàng trai khỏe mạnh túm tụm quanh chiếc bàn nhựa để uống rượu. Đồ mồi của họ chỉ là đĩa cá khô và mấy quả dưa chuột, nhưng dưới chân bàn đã có 3-4 chai nhựa rỗng nằm lăn lóc. Khuôn mặt ai nấy đỏ ửng vì đã thấm men. Xung quanh không có người phụ nữ nào. Hỏi ra mới biết, những người vợ của họ đã lên nương làm rẫy, bẻ ngô thuê, hái rau rừng trên các sườn núi cheo leo. “Đa số đàn ông ở đây là như vậy, suốt ngày ở nhà ăn chơi, nhậu nhẹt, chứ không chịu đi làm. Mọi công việc kiếm tiền đều do người vợ lo hết”, anh Hoa, cán bộ văn hoá xã, nói.
Theo phong tục của người dân tộc nơi đây, mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, trong đó có tài chính, đều do người phụ nữ quản lý. Khi chia tay, người đàn ông phải rời khỏi nhà vợ mà không được mang theo bất cứ tài sản gì. Mọi chi phí cho lễ ăn hỏi, lễ cưới đều do gia đình nhà gái lo. Theo ông Toàn, với lễ hỏi, nhà gái phải chuẩn bị đồ lễ gồm cơm, rượu cần, nhẫn (nhẫn thường làm bằng nhôm, sắt, inox), chuỗi hạt cườm… đem đến nhà trai để nói chuyện. Nếu hai bên đồng ý thì 8 ngày sau, nhà gái sẽ chuẩn bị đồ lễ khác để đến làm đám cưới, bắt rể về nhà.
Cháu của ông Ka Tơ Toàn không được đến trường, chơi quanh quẩn ở nhà ngoại.
Cháu của ông Ka Tơ Toàn không được đến trường, chơi quanh quẩn ở nhà ngoại. 
“Một cái đám hỏi cũng tốn 5 triệu đồng, 8 ngày sau, nhà gái chưa chuẩn bị kịp thì xin thêm 8 ngày nữa, nếu vẫn không kịp thì xin lên 34 ngày. Nếu hết 34 ngày mà nhà gái không chuẩn bị đủ sính lễ để làm lễ cưới, bắt rể thì coi như bỏ”, ông Toàn nói. Để chuẩn bị cho một đám cưới, nhà gái phải bỏ ra kinh phí lớn gấp 10 lần lễ hỏi, gồm nhẫn vàng, cơm, rượu, thịt, quần áo… đem đến cho nhà trai. Tổng chi phí không dưới 50 triệu đồng. Về việc nhà gái phải lo toàn bộ chi phí cho đám cưới, ông Toàn lý giải: “Mình là nhà gái, đi bắt con người ta về làm cho nhà mình thì phải chịu bỏ tiền ra chứ. Công người ta nuôi con mấy chục năm mà”.
Ông Ka Tơ Toàn vừa đan gùi vừa chăm cháu.
Ông Ka Tơ Toàn vừa đan gùi vừa chăm cháu. 
Theo ông Toàn, người Raglai ở Ma Nới ưng là bắt chồng về sống chung luôn chứ không trải qua phong tục ngủ thảo (ngủ chung với nhau để tâm sự, tìm hiểu nhau, không có chuyện ái ân) như ở huyện Bác Ái. Ở đây, đàn ông khi về nhà vợ sẽ phải trải qua 1-3 năm thử thách. Trong thời gian này, nếu phạm lỗi hay đánh vợ thì có khả năng bị đuổi về nhà bố mẹ đẻ mà không được mang theo thứ gì.
Chammalé Âu, già làng thôn Do, cho biết, dân tộc Raglai theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ nắm quyền trong gia đình và chi phối mọi việc. Nếu chàng trai về nhà làm rể mà phạm lỗi lớn thì cả họ họp lại giáo dục. Lần một, lần hai rồi lần ba. Nếu không chịu sửa đổi thì sẽ bị đuổi rể, tức là đuổi về nhà bố mẹ đẻ và khi đó người đàn ông sẽ rất khó để có người khác bắt làm chồng.
Ông Nghiêm Văn Vinh, Chủ tịch UBND xã Ma Nới, cho biết, cư dân trong xã miền núi này phần lớn là người dân tộc thiểu số, hủ tục ở đây vẫn còn. Thậm chí có đến 60-70% người dân tộc thiểu số tảo hôn. Xuất phát từ thực trạng dù chồng có làm được bao nhiêu, nhưng khi vợ chết, chồng ra đi tay trắng, nên phần lớn đàn ông không lo làm ăn, mà suốt ngày ăn nhậu, chơi bời.

Dai dẳng hủ tục vùng cao

Những hủ tục vùng cao, quan niệm lạc hậu, nạn tảo hôn vẫn còn đeo bám người dân vùng cao ở vùng núi Trường Sơn - Quảng Nam kéo theo những hệ lụy buồn...

Dai dẳng hủ tục vùng cao
Già trẻ, gái trai đều uống rượu say sưa suốt ngày, là nguyên nhân chính dẫn đến những cái “chết xấu”.
Già trẻ, gái trai đều uống rượu say sưa suốt ngày, là nguyên nhân chính dẫn đến những cái “chết xấu”. 
Kỳ 1: Ám ảnh chết xấu
Dù được nhà nước đầu tư kéo điện về tận làng, làm đường bê tông, hệ thống nước sạch khang trang, nhưng hàng chục hộ dân ở xã Trà Nam huyện miền núi Nam Trà My (Quảng Nam) vẫn bỏ làng, bỏ nhà cửa để đến nơi ở mới chấp nhận thiếu thốn chỉ vì hủ tục vùng cao, quan niệm lạc hậu.
Từ đầu năm đến nay, ở hai xã Trà Cang và Trà Nam (Nam Trà My) có gần 20 người tự tử một cách khó hiểu. Theo Công an huyện Nam Trà My, trong năm nay riêng xã Trà Nam có tới 12 vụ tự tử mà chủ yếu là treo cổ và ăn lá ngón. Cá biệt tháng 8/2015, có 3 vụ treo cổ xảy ra cùng một thôn. Theo quan niệm của người dân, tự tử là chết xấu, nên nhiều nóc làng sống ổn định mấy chục năm qua đã di dời đến nơi ở mới không điện, đường dù rằng chính quyền đã nỗ lực vận động. Nhưng, “phép nước thua lệ làng”, dân đi vẫn cứ đi.
Nóc Măng Dí 4 thuộc thôn 1 được xem là “khu đất vàng” ở xã Trà Nam, bởi nằm ngay trước trụ sở UBND xã Trà Nam. Cuộc sống vui nhộn của Măng Dí 4 trước đây nay thay vào đó là sự hoang tàn, u ám và trở thành nỗi ám ảnh của người dân địa phương. Vào đầu tháng 8 vừa qua, 17 hộ của nóc Măng Dí 4 phải di dời đi nơi ở mới bởi trước đó liên tiếp chỉ trong tháng 5, trong nóc có 3 người treo cổ chết.
Ông Trần Văn Tuấn, Phó Chủ tịch xã Trà Nam dẫn chúng tôi qua khu đất thôn Măng Dí 4, không khỏi buồn lòng và tiếc nuối vì sự đầu tư của nhà nước vào đây không hề nhỏ. Nóc có 17 hộ thì 8 hộ đơn thân vì có vợ hoặc chồng tự tử. “Nếu như ở xuôi, khu này là đất vàng, cao giá lắm vì ở trung tâm xã, điện, đường, trường trạm không thiếu thứ gì. Nhưng làng có người treo cổ chết, họ cho là chết xấu, nên bỏ đi. Cái lý của người dân, nếu ở lại có người tự tử chết ai chịu trách nhiệm?”, ông Tuấn thở dài.
Hai bên cổng chào vào nóc Măng Dí 4 là 2 tấm pano tuyên truyền xây dựng nông thôn mới với khẩu hiệu “Xây dựng để được 5 có”, “Phấn đấu để được 5 không”. Ấy nhưng phía sau 2 tấm pano đó tất cả đều trống trơn, không một bóng người. Cả nóc chỉ còn 2 căn nhà có người treo cổ tự tử còn để nguyên, hoang tàn không ai dám vào. Theo quan niệm của người dân, dân làng chuyển nhà cửa đi, riêng nhà nào có người treo cổ phải để lại đó dù gia chủ có khó khăn đến mấy.
Ông Tuấn cho hay, trước khi dân làng đi, trưởng nóc ra báo cáo xã. Xã biết chuyện, báo cáo huyện. Cán bộ huyện vào, cùng xã và các đoàn thể ban ngành ngày đêm họp dân, tuyên truyền, vận động hết lời nhưng người dân vẫn không nghe. Dân làng sợ, nhất nhất quyết bỏ làng đi, không ai cản được. Hai nóc khác của thôn 1 là Măng Dí 3 và Măng Dí 1 cũng có 39 hộ dân đã chuyển chỗ ở mới vì trong làng liên tiếp có người chết xấu. Ông Hồ Văn Thuấn, chủ tịch UBND xã Trà Nam là người địa phương. Hỏi ông Thuấn chuyện dân bỏ làng đi, ông cũng chỉ biết lắc đầu: “Làm sao lấy pháp luật của mình mà ép dân được. Đi hay ở là quyền của họ, cán bộ sao cấm”.
Sống tạm bợ giữa rừng
Nơi ở mới của các hộ dân nóc Măng Dí 4 chênh vênh giữa lưng chừng đồi, xung quanh là cỏ tranh, lau sậy, không nước sinh hoạt, không điện, đường. Khu đất này tự dân làng chọn, tự mở đường, san đắp nền rồi về đây ở. Tất cả các nhà đều tạm bợ, nhiều nhà bằng tre nứa trên nền đất yếu, nguy cơ sạt lở vào mùa mưa lũ rất cao. Hỏi trưởng nóc Đinh Văn Mác, vùng đất dân làng chọn có tốt không, ông đáp: “Chưa biết. Phải ở một thời gian đã rồi mới biết. Nếu trong làng có người tự tử nữa thì phải chuyển đi nơi khác”.
Hồ Thị Diên có chồng là Hồ Văn Danh treo cổ tự tử, nhắc đến cái chết của chồng, Diên không hề biểu hiện sự đau khổ mà chỉ thấy ánh mắt đầy sợ hãi né tránh. Dân làng kể, hôm trước khi chết, Danh xách dao và dây ra bìa rừng để tự tử. Người nhà phát hiện, dẫn về khuyên ngăn đủ lời. Sáng sớm người nhà và dân làng tá hỏa vì Danh treo cổ chết trong nhà. Rùng rợn hơn là Danh treo cổ ngay chỗ treo xương thú, đầu heo nơi linh thiêng của gia đình mình. Với người dân Xê Đăng đó là điều hết sức tối kỵ. “Hai vợ chồng không có cãi vã, gây gổ gì hết. Nó uống rượu. Nó điên nên nửa đêm treo cổ. Ngủ dậy thấy nó treo cổ chết cạnh đầu heo, xương thú sợ lắm. Nó chết dân làng bảo phải cúng. Mình cúng 5 con gà rồi bỏ nhà đi với làng. Không đi sẽ có người chết nữa!”, Diên kể.
Qua nơi mới, Diên phải dựng tre, căng bạt làm nhà tạm bợ để 3 mẹ con ở. Bên trong trống trơn, ngoài chăn chiếu chỉ có ít xoong nồi nấu nướng của ba mẹ con. Hỏi Diên có tiếc nhà cửa đất đai ở nơi ở cũ không? Diên đáp lạnh lùng: “Tiếc gì mà tiếc. Nhà đó, khu đó bị ma ám rồi mà”.
Hồ Thị Diên bên căn nhà cũ bỏ hoang vì có chồng “chết xấu”.
Hồ Thị Diên bên căn nhà cũ bỏ hoang vì có chồng “chết xấu”. 
Vợ chồng ông Trần Ngọc Loan và gia đình hai người con trai với hơn 10 nhân khẩu đang chen chúc trong căn nhà tạm bợ chật chội trên đồi. Con gái ông là Trần Ngọc Giang treo cổ tự tử hồi tháng 5. Ông theo dân làng ra đi, nhà cũ bỏ lại. “Chỗ cũ sướng hơn vì có điện có nước nhưng sợ quá nên phải đi. Giờ về nơi đây dân phải tự kéo điện, kiếm nguồn nước để dùng. Giờ phải chờ hết cữ, nếu trong làng có 2, 3 người tự tử trong một tháng là dân làng phải đi tìm nơi ở mới”, ông Loan cho biết.
Đất tốt hay xấu theo dân làng phải chờ hết cữ rồi mới quyết định. Nhưng nhìn những nóc nhà liêu xiêu bên vực sâu hun hút thì tốt xấu hay không chưa nghĩ, nghĩ đến mùa mưa bão tới đây thôi cũng đủ sợ và ớn lạnh rồi.
Rượu và hủ tục
Thượng tá Huỳnh Ngọc Thành, Phó trưởng Công an huyện Nam Trà My, cho biết: số lượng người treo cổ tự tử tăng đột biến trong năm 2015 do hủ tục vùng cao, quan niệm lạc hậu của người dân không biết quý trọng mạng sống. Khi xảy ra sự việc lực lượng công an có mặt điều tra nhưng người dân sợ không ai nói gì. Họ bảo đó là chết xấu, không ai làm gì cả.
Theo ông Thành, nguyên nhân chủ yếu vẫn do quan niệm lạc hậu cùng với nạn rượu chè dẫn đến mâu thuẫn cá nhân, vợ chồng gây gổ, uất ức rồi tìm đến cái chết. Tuy nhiên có trường hợp như Hồ Thị Thêm, là đảng viên, cán bộ xã Trà Nam, là người có trình độ nhưng vẫn ăn lá ngón tự tử một cách khó hiểu. Ngồi nói chuyện, hỏi Hồ Thị Diên có biết uống rượu không, Diên lắc đầu: “Không có uống”. Ấy nhưng miệng tỏa mùi rượu nồng nặc.
Nghe chúng tôi bảo về nơi ở cũ chụp hình, Diên xin đi cùng, rồi bảo: “Mình về thăm nhà, chứ đi cả tháng rồi chưa về, cũng thấy nhớ”. Ông Phó chủ tịch xã, rỉ tai: “May nhờ có mấy anh, có men rượu trong người mới dám về đó. Chứ bình thường thì không dám quay lại đâu. Dân đây sợ ma quỷ lắm”. Quay về nhà cũ, nhưng Diên chỉ đứng bên ngoài hiên, không dám vào trong. Xong rồi đi một mạch ra quán mua bịch rượu mang về làng.
Những căn nhà tạm bợ ở nơi ở mới.
Những căn nhà tạm bợ ở nơi ở mới. 
Hôm chúng tôi lên, ở nơi ở mới, dân làng Măng Dí 4 vừa tổ chức cúng xong. Bao nhiêu rượu dân làng mang ra uống. Gái trai, già trẻ ai cũng uống. Ông Loan và con cùng nhau ngồi uống rượu hả hê. Vợ ông, bà Hồ Thị Thiên và con dâu là Hồ Thị Vái cũng ngồi uống. Họ uống rượu bằng tô nhựa to đùng, mồi chỉ là một xiên thịt nướng qua lửa. Vợ ôm tô, chồng ôm tô đầy rượu cứ thế mà uống. Uống vào một lúc ai cũng say nói lè nhè. Nhìn cảnh dân làng ngồi uống rượu say sưa thì ma quỷ đâu chẳng thấy, chỉ thấy ma men hiện hình.

Chết đứng với những hủ tục kinh dị nhất thế giới

Dùng xương người chết để nấu cháo, cắt ngón tay chôn cùng xác người thân... là những hủ tục kinh dị và đau đớn nhất thế giới.

Chết đứng với những hủ tục kinh dị nhất thế giới
Tục lệ ăn xương người chết

Hôm nay khai mạc phiên trù bị Đại hội Đảng XII

(Kiến Thức) - Sáng nay (20/1), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (Đại hội Đảng 12) tiến hành phiên họp trù bị với sự tham gia của 1.510 đại biểu.

Hôm nay khai mạc phiên trù bị Đại hội Đảng XII
Sáng nay (20/1), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (Đại hội Đảng 12) - sự kiện chính trị trọng đại của cả nước, 5 năm mới diễn ra 1 lần, sẽ tiến hành phiên họp trù bị với sự tham gia của 1.510 đại biểu đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên.

Tin mới