Không quân Việt Nam ở chiến trường Campuchia (1): dùng “chim sắt” Mỹ

(Kiến Thức) - Trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979 và đầu cuộc chiến giúp đỡ nhân dân Campuchia, Không quân Việt Nam chủ yếu sử dụng máy bay Mỹ để yểm trợ.

* Bài viết có sử dụng tư liệu từ cuốn Lịch sử Không quân Nhân dân Việt nam và Lịch sử dẫn đường Không quân.
Sau ngày thống nhất đất nước, Quân chủng Phòng không - Không quân nhanh chóng thu hồi chiến lợi phẩm để bảo vệ Tổ quốc. Tính đến cuối tháng 5/1975, bộ đội ta đã thu hồi được 877 máy bay các loại (bao gồm nhiều chiếc chiến đấu cơ F-5E và A-37) từ không quân quân đội Sài Gòn. Với số máy bay thu được, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập một loạt trung đoàn không quân mới.
Ngày 30/5/1975, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn Tiêm kích 935 sử dụng máy bay F-5A/E và Trung đoàn Cường kích 937 dùng A-37. Hai trung đoàn có nhiệm vụ tác chiến phòng không, tiến công đường không, giành và giữ quyền làm chủ bầu trời, chi viện bảo vệ lực lượng binh chủng hợp thành.
Tiêm kích F-5 do hãng Northrop (Mỹ) sản xuất, được quân ta thu giữ sau 1975 và sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979.
 Tiêm kích F-5 do hãng Northrop (Mỹ) sản xuất, được quân ta thu giữ sau 1975 và sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979.
Tiếp đó, ngày 5/7/1975, Trung đoàn Vận tải 918 được thành lập với trang bị máy bay C-130, C-47 và C-119. Đơn vị làm nhiệm vụ vận tải và có thể tham gia tiến công đường không khi cần.
Ngày 20/7/1975, Trung đoàn trinh sát - vận tải 917 trang bị trực thăng UH-1, CH-47 và máy bay trinh sát L-19, U-17 ra đời. Đoàn 917 có nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực, trinh sát đường không, chỉ thị mục tiêu, đổ bộ vận chuyển/vận tải đường không, cấp cứu.
Trên cơ sở các trung đoàn mới, ngày 15/9/1972, Sư đoàn Không quân 372 được thành lập với biên chế 4 đơn vị trên. Và chính những đơn vị này trong chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979 trước quân xâm lược Khơ Me đỏ và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng sau này, các đơn vị trang bị “toàn vũ khí Made in USA” trở thành cánh tay đắc lực yểm trợ tốt nhất, hiệu quả nhất cho đơn vị mặt đất.
Lực lượng chi viện đắc lực
Bước vào chiến dịch phản công biên giới Tây Nam 1979, Bộ Quốc phòng quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng không quân tham chiến phối hợp với bộ binh để nhanh chóng tiêu diệt địch làm chủ chiến trường.
Máy bay cường kích A-37 (hãng Cessna Mỹ sản xuất) đã nhiều lần dội bom, bắn rocket tiêu diệt mục tiêu quân Khơ Me đỏ.
 Máy bay cường kích A-37 (hãng Cessna Mỹ sản xuất) đã nhiều lần dội bom, bắn rocket tiêu diệt mục tiêu quân Khơ Me đỏ.
Sư đoàn Không quân 372 được Quân chủng Không quân chọn làm nòng cốt trong chiến dịch này. Để giúp sư 372 hoàn thành tốt nhiệm vụ, Quân chủng có điều thêm một số lực lượng từ các đơn vị bạn đến phối thuộc. Ngày 18/12/1978, một phi đội tiêm kích MiG-21 có đủ trình độ đánh địch cả ngày lẫn đêm của Trung đoàn 921 Anh hùng đã từ Nội Bài vào Biên Hòa và trực chiến từ ngày 25/12. Ngoài ra còn có 4 trực thăng vận tải hạng nặng Mi-6 của Trung đoàn 916 và một số máy bay vận tải C-130, C-119 và EC-47 của Trung đoàn 918 cũng được tăng cường cho Sư đoàn 372.
Căn cứ vào ý định của Quân chủng, Sư đoàn 372 thành lập 2 sở chỉ huy phía trước là F-1 đặt tại Bến Cầu Tây Ninh và F-2 đặt tại Châu đốc An Giang cùng 5 tổ tham mưu chiến dịch (tham mưu không quân) theo các hướng tác chiến của các quân khu, quân đoàn và quân chủng Hải quân.
Về hệ thống sân bay: Biên Hòa được chọn làm căn cứ trung tâm, 2 sân bay trọng điểm là Cần Thơ và Tân Sơn Nhất, các sân bay phía trước là Dương Minh Châu, Trảng Lớn, Thất Sơn, Phú Quốc, Plei-Ku… Tất cả đều được củng cố nhằm bảo đảm cho tất cả các loại máy bay và trực thăng hoạt động thật hiệu quả đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ trong chiến dịch.
Ngày 22/12/1978, trên toàn tuyến biên giới, quân ta bắt đầu phản công đánh vào các đơn vị địch, không quân cũng bước vào cuộc chiến đấu hiệp đồng với bộ binh. 15h15 phút ngày 23/12, 9 chiếc tiêm kích F-5 mang bom của Trung đoàn 935 chia làm 3 tốp bay lên hướng tây-tây bắc Tây Ninh chi viện cho Quân đoàn 4 đang bao vây chia cắt 3 sư đoàn địch tại rừng Hòa Hội. Các tốp F-5 đã đánh bom trúng sở chỉ huy sư đoàn 703 và trận địa pháo của quân Pol Pot tại khu vực Hòa Thanh (nam Hòa Hội 7 km).
Phi đội tiêm kích F-5 Không quân Nhân dân Việt Nam xuất kích.
 Phi đội tiêm kích F-5 Không quân Nhân dân Việt Nam xuất kích.
Ở hướng Quân khu 5, Quân đoàn 2 và hướng Hải quân cũng nhận được sự chi viện đắc lực của Không quân từ ngày mở màn đến lúc kết thúc chiến dịch. Tính từ 22/12/1978 đến ngày 17/1/1979 là ngày quân ta và lực lượng cách mạng Campuchia giành toàn thắng trên tất cả các hướng, không quân đã hoạt động 54 đợt, đánh 99 trận với 627 lần chiếc. Trong đó có 352 lần trực tiếp đánh, 147 lần chiếc MiG-17, MiG-19, MiG-21 và F-5 làm nhiệm vụ tiêm kích phòng không, 67 lần chiếc trinh sát, chỉ thị mục tiêu; 4 lần chiếc C-130 chụp ảnh và 57 lần chiếc trực thăng bay sẵn sàng cấp cứu.
Biến vận tải cơ Mỹ thành oanh tạc cơ
Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân ta chỉ có máy bay tiêm kích hạng nhẹ làm nhiệm vụ phòng không. Sau năm 1975, trong những máy bay chiến lợi phẩm thu được của quân đội Sài Gòn cũng chỉ có một số máy bay ném bom hạng nhẹ A-37. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực trong khả năng hạn chế, không quân ta đã sáng tạo cải tiến các loại máy bay C-130, C-119K để mang bom, đạn cối để tấn công mặt đất chi viện hỏa lực cho bộ binh. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, các loại máy bay này đã có những đóng góp rất tích cực.
Ngày 28/12/1978, để chi viện hỏa lực cho lực lượng Quân khu 5, Sư đoàn 372 đã cho sử dụng các máy bay C-130 và C-119K tập kích vào hậu phương của các sư đoàn quân Pol Pot ở đông bắc Campuchia.
Các cán bộ kỹ thuật Không quân Nhân dân Việt Nam thậm chí còn biến máy bay vận tải C-130 thành máy bay ném bom.
 Các cán bộ kỹ thuật Không quân Nhân dân Việt Nam thậm chí còn biến máy bay vận tải C-130 thành máy bay ném bom.
Sáng 28/12/1978, lực lượng kỹ thuật của Trung đoàn 918 tập trung lắp bom MK-81 lên C-130 và lắp đạn cối lên C-119K. Trong khi đó, đội ngũ dẫn đường trên không của các tổ bay tiến hành rà soát lại số liệu đường bay và kiểm tra các thiết bị. Mọi công tác bảo đảm đều hoàn thành đúng thời gian quy định, chỉ chờ lệnh là xuất kích đánh địch.
Lúc 11h20, sau khi 2 máy bay U-17 bay lên trinh sát khu vực phía tây đường 19 và đường 94 có kết quả, Sở chỉ huy sư đoàn 372 ra lệnh công kích. Hai chiếc C-130 do Tiêu Khánh nha và Phan Hữu Hùng làm lái chính cất cánh từ Biên Hòa bay lên hướng Plei-Ku. Sau đó nửa giờ, biên đội tiêm kích F-5 cũng cất cánh lúc 11h49 để yểm hộ cho C-130.
Cũng lúc này, tại Phù Cát, 4 MiG-19 cất cánh và được dẫn vào khu vực cách Plei-Ku 40 km về phía tây bắc yểm hộ cho C-130. Ở tại sân bay Plei-Ku, Trung đoàn 917 cũng cho 2 trực thăng UH-1 bay theo hướng tây vào khu vực cấp cứu sẵn sàng ứng cứu phi công nếu máy bay bị hỏa lực phòng không đối phương bắn.
Hai chiếc C-130 từ Biên Hòa bay lên Plei-Ku thì vòng trái rồi bay qua ngã ba sông ở khu vực Kampadou cách 65km về phía tây-tây nam Plei-ku. Một chiếc vào đánh mục tiêu K4 (Vi ra chây) một chiếc đánh K3 (Bung lung). Phát hiện mục tiêu, mỗi tổ bay ném hai loạt, mỗi loạt ném một nửa số bom mang theo.
Loạt bom đầu tiên của tổ bay thứ nhất rơi vào mép bên trái khu A của mục tiêu còn loạt sau rơi trúng khu B của K4. Tổ bay thứ 2 ném loạt đầu bị lệch trái 500m so với mục tiêu loạt phải lệch phải 300m. Cả hai tổ bay thoát ly mục tiêu bay về hạ cánh an toàn tại sân bay Biên Hòa.
Sau C-130, C-119K được lệnh vào công kích nhưng do sự cố kỹ thuật, chỉ có 1 chiếc cất cánh được. C-119K được 2 chiếc MiG-19 cất cánh từ sân bay Biên Hòa lúc 12h40 yểm hộ và sau đó khoảng 1h lại có F-5 bay lên yểm hộ trên đường rút.
Máy bay vận tải C-119K cũng được cải tiến mang đạn cối 82mm "thả lửa" lên đầu quân xâm lược.
 Máy bay vận tải C-119K cũng được cải tiến mang đạn cối 82mm "thả lửa" lên đầu quân xâm lược.
C-119K nhận lệnh đánh vào mục tiêu K2 (Ba Kev) do lái chính Trần Văn Tuyên điều khiển. Đến khu vực quy định, nhận rõ mục tiêu, dẫn đường trên không Nguyễn Khắc Thọ lấy phần tử ngắm chuẩn bị thả đạn cối. Loạt thứ nhất, 60 quả đạn cối 82mm rơi đúng vào sở chỉ huy của sư đoàn 801 Pol Pot. Máy bay tiếp tục vòng lại ném loạt thứ hai. Lần này cả 72 quả đạn cối đều rơi vào khu vực K2.
Đúng lúc này lái chính cảm thấy trạng thái máy bay có biểu hiện bất thường. Tuy vậy anh vẫn bình tĩnh giữ chắc tay lái và điều khiển được máy bay về Plei ku hạ cánh an toàn. Các thợ máy kiểm tra phát hiện ra cánh thăng bằng ngang của máy bay bị biến dạng do thùng chứa các quả đạn va phải khi rời khỏi máy bay.
Sang ngày 29/12 hai chiếc C-130 lại tiếp tục đánh mục tiêu K3 lần thứ hai đồng thời 3 UH-1 vào đánh K2. Trong ngày 29, bộ đội Quân khu 5 đã làm chủ chiến trường, diệt và làm tan rã hai sư đoàn địch. Trong chiến công này có đóng góp quan trọng của lực lượng không quân.

Sức mạnh vũ khí “khủng”... Quân đội ta thu được sau 1975

(Kiến Thức) - Một số phương tiện chiến tranh ta thu được từ kho vũ khí Quân đội Sài Gòn được đánh giá cao về tính năng, sức mạnh hỏa lực.

Trong số hàng trăm loại vũ khí (súng ống, pháo, xe tăng, máy bay, tàu chiến) thu được sau 1975, có nhiều thiết kế vũ khí được đánh giá khá cao về tính năng, hỏa lực, cơ động. Không ít trong số này được ta sử dụng rất thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thậm chí còn hoạt động cho tới ngày nay. Trong ảnh là một chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực M48 (Mỹ chế tạo) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đây là một trong 2 loại xe tăng ta thu giữ và sử dụng. Ảnh: Hoàng Lê
Trong số hàng trăm loại vũ khí (súng ống, pháo, xe tăng, máy bay, tàu chiến) thu được sau 1975, có nhiều thiết kế vũ khí được đánh giá khá cao về tính năng, hỏa lực, cơ động. Không ít trong số này được ta sử dụng rất thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thậm chí còn hoạt động cho tới ngày nay. Trong ảnh là một chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực M48 (Mỹ chế tạo) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đây là một trong 2 loại xe tăng ta thu giữ và sử dụng. Ảnh: Hoàng Lê

Trong ảnh là xe tăng M48 trên con đường ở thành phố Sài Gòn ngày 30/4. Trên xe có một số chiến sĩ quân giải phóng và binh lính VNCH giác ngộ, đi theo Cách mạng.
Trong ảnh là xe tăng M48  trên con đường ở thành phố Sài Gòn ngày 30/4. Trên xe có một số chiến sĩ quân giải phóng và binh lính VNCH giác ngộ, đi theo Cách mạng.

Sức mạnh của M48 Patton được đánh giá là tương đương với xe tăng T-54/55 của Liên Xô. M48 được trang bị pháo chính cỡ 90mm T54 và xe bọc giáp dày tới 120mm. Ảnh minh họa
Sức mạnh của M48 Patton được đánh giá là tương đương với xe tăng T-54/55 của Liên Xô. M48 được trang bị pháo chính cỡ 90mm T54  và xe bọc giáp dày tới 120mm. Ảnh minh họa

Xe bọc thép chở quân M113 cũng là loại vũ khí lục quân ta thu được rất nhiều (có nguồn cho rằng khoảng 500 chiếc). Đây là loại xe được đánh giá cao về tính cơ động, khả năng lội nước, chở quân, yểm trợ hỏa lực.
Xe bọc thép chở quân M113 cũng là loại vũ khí lục quân ta thu được rất nhiều (có nguồn cho rằng khoảng 500 chiếc). Đây là loại xe được đánh giá cao về tính cơ động, khả năng lội nước, chở quân, yểm trợ hỏa lực.

Chúng ta đã sử dụng rất hiệu quả M113 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và các chiến dịch giải phóng nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng Khmer Đỏ 1979. Trong quá trình sử dụng, ta đã tự cải tiến trang bị thêm pháo không giật DKZ để tăng hỏa lực yểm trợ bộ binh. Hiện nay, tuy gặp khá nhiều khó khăn trong tìm kiếm nguồn linh kiện thay thế, nhưng ta vẫn cố gắng duy trì bảo đảm chiến đấu cho M113.
Chúng ta đã sử dụng rất hiệu quả M113 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và các chiến dịch giải phóng nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng Khmer Đỏ 1979. Trong quá trình sử dụng, ta đã tự cải tiến trang bị thêm pháo không giật DKZ để tăng hỏa lực yểm trợ bộ binh. Hiện nay, tuy gặp khá nhiều khó khăn trong tìm kiếm nguồn linh kiện thay thế, nhưng ta vẫn cố gắng duy trì bảo đảm chiến đấu cho M113.

Ta cũng thu giữ được số lượng lớn lựu pháo M101 105mm do Mỹ sản xuất sau 1975 và sử dụng cho tới tận ngày nay. Trong ảnh là cuộc diễn tập bắn đạn thật phòng thủ bờ biển của quân đội ta với pháo 105mm.
Ta cũng thu giữ được số lượng lớn lựu pháo M101 105mm do Mỹ sản xuất sau 1975 và sử dụng cho tới tận ngày nay. Trong ảnh là cuộc diễn tập bắn đạn thật phòng thủ bờ biển của quân đội ta với pháo 105mm.

Lựu pháo M101 105mm có thể đạt tầm bắn tới 11,2km.
Lựu pháo M101 105mm có thể đạt tầm bắn tới 11,2km.

Bên cạnh loại 105mm, ta cũng thu được lựu pháo M114 155mm có thể đạt tầm bắn tối đa 14,6km. Nguồn ảnh: GDVN
Bên cạnh loại 105mm, ta cũng thu được lựu pháo M114 155mm có thể đạt tầm bắn tối đa 14,6km. Nguồn ảnh: GDVN

Đặc biệt nhất, bộ đội ta thu giữ được một số lượng nhỏ siêu pháo tự hành hạng nặng M107 175mm mà Mỹ trang bị cho Quân đội Sài Gòn. Loại pháo này có tầm bắn xa tới 34km, xa hơn cả pháo M46 130mm của quân đội ta. Tuy nhiên, tốc độ bắn khá chậm chỉ 1-2 phát/phút. Trong ảnh là một khẩu M107 175mm trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: Hoàng Lê
Đặc biệt nhất, bộ đội ta thu giữ được một số lượng nhỏ siêu pháo tự hành hạng nặng M107 175mm mà Mỹ trang bị cho Quân đội Sài Gòn. Loại pháo này có tầm bắn xa tới 34km, xa hơn cả pháo M46 130mm của quân đội ta. Tuy nhiên, tốc độ bắn khá chậm chỉ 1-2 phát/phút. Trong ảnh là một khẩu M107 175mm trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: Hoàng Lê

Giá trị nhất trong kho vũ khí chiến lợi phẩm là một vài máy bay chiến đấu và vận tải đã tăng đáng kể sức mạnh Không quân Nhân dân Việt Nam sau 1975. Trong ảnh là tiêm kích hạng nhẹ F-5E (Mỹ sản xuất) biên chế trong không quân ta. Đây là loại tiêm kích phản lực siêu âm, một chỗ ngồi, trang bị 2 pháo 20mm ở mũi và 7 giá treo trên cánh mang 3,2 tấn vũ khí (tên lửa, bom, rocket).
Giá trị nhất trong kho vũ khí chiến lợi phẩm là một vài máy bay chiến đấu và vận tải đã tăng đáng kể sức mạnh Không quân Nhân dân Việt Nam sau 1975. Trong ảnh là tiêm kích hạng nhẹ F-5E (Mỹ sản xuất) biên chế trong không quân ta. Đây là loại tiêm kích phản lực siêu âm, một chỗ ngồi, trang bị 2 pháo 20mm ở mũi và 7 giá treo trên cánh mang 3,2 tấn vũ khí (tên lửa, bom, rocket).

Máy bay cường kích hạng nhẹ A-37 biên chế trong Không quân Nhân dân Việt Nam. A-37 có khả năng mang 1,2 tấn vũ khí (bom, rocket, tên lửa) trên 8 giá treo. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, không quân ta đã sử dụng rất thành công tiêm kích F-5E và A-37 với nhiệm vụ không kích mục tiêu mặt đất.
Máy bay cường kích hạng nhẹ A-37 biên chế trong Không quân Nhân dân Việt Nam. A-37 có khả năng mang 1,2 tấn vũ khí (bom, rocket, tên lửa) trên 8 giá treo. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, không quân ta đã sử dụng rất thành công tiêm kích F-5E và A-37 với nhiệm vụ không kích mục tiêu mặt đất.

Về lực lượng trực thăng, không quân ta ngoài những chiếc Mi-6/8 của Liên Xô cũng được bổ sung thêm vài chục chiếc trực thăng đa dụng UH-1 (Mỹ chế tạo) có thể vừa làm nhiệm vụ tải quân, tải thương vừa thực hiện yểm trợ hỏa lực (bằng súng máy và rocket).
Về lực lượng trực thăng, không quân ta ngoài những chiếc Mi-6/8 của Liên Xô cũng được bổ sung thêm vài chục chiếc trực thăng đa dụng UH-1 (Mỹ chế tạo) có thể vừa làm nhiệm vụ tải quân, tải thương vừa thực hiện yểm trợ hỏa lực (bằng súng máy và rocket).

Ngoài loại UH-1, không quân ta còn có sự phục vụ của 5 chiếc trực thăng vận tải hạng nặng CH-47 (Mỹ sản xuất). CH-47 có khả năng chở 55 lính hoặc 24 cáng cứu thương hoặc 12,7 tấn hàng hóa. Năng lực tải hàng của CH-47 còn vượt hơn cả trực thăng vận tải lớn nhất Liên Xô mà không quân ta trang bị, loại Mi-6. Trong ảnh là bộ đội ta đang đổ bộ từ chiếc CH-47 trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.
Ngoài loại UH-1, không quân ta còn có sự phục vụ của 5 chiếc trực thăng vận tải hạng nặng CH-47 (Mỹ sản xuất). CH-47 có khả năng chở 55 lính hoặc 24 cáng cứu thương hoặc 12,7 tấn hàng hóa. Năng lực tải hàng của CH-47 còn vượt hơn cả trực thăng vận tải lớn nhất Liên Xô mà không quân ta trang bị, loại Mi-6. Trong ảnh là bộ đội ta đang đổ bộ từ chiếc CH-47 trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

7 chiếc vận tải cơ hạng trung C-130 thu giữ được từ không quân Quân đội Sài Gòn được ta sử dụng thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Khi đó, C-130 được xem là loại máy bay vận tải lớn nhất của không quân ta, với tải trọng 20 tấn (có thể chở 64 lính dù hoặc 74 cáng cứu thương hoặc 2 xe bọc thép M113).
7 chiếc vận tải cơ hạng trung C-130 thu giữ được từ không quân Quân đội Sài Gòn được ta sử dụng thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Khi đó, C-130 được xem là loại máy bay vận tải lớn nhất của không quân ta, với tải trọng 20 tấn (có thể chở 64 lính dù hoặc 74 cáng cứu thương hoặc 2 xe bọc thép M113).

Tàu vận tải đổ bộ lớp LST-491 (tàu HQ-505) thu giữ từ Hải quân Quân đội Sài Gòn đã góp phần bảo vệ vững chắc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đây được xem là loại tàu chiến lớn nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam vào thời điểm bấy giờ, với lượng giãn nước gần 4.000 tấn.
Tàu vận tải đổ bộ lớp LST-491 (tàu HQ-505) thu giữ từ Hải quân Quân đội Sài Gòn đã góp phần bảo vệ vững chắc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đây được xem là loại tàu chiến lớn nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam vào thời điểm bấy giờ, với lượng giãn nước gần 4.000 tấn.

Vũ khí chiến lợi phẩm giúp gì cho KQND Việt Nam?

(Kiến Thức) - Vũ khí chiến lợi phẩm thu giữ được từ Quân đội Sài Gòn sau ngày 30/4 đã góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ tổ quốc sau 1975.

Mở rộng lực lượng với máy bay chiến lợi phẩm

Theo tài liệu Lịch sử Không quân Nhân dân Việt Nam, đến tháng 4/1975, không quân Quân đội Sài Gòn được xây dựng và trang bị khá hiện đại, là một trong những lực lượng mạnh ở khu vực Đông Nam Á.

Ở thời điểm cao nhất, lực lượng này được trang bị 1.193 máy bay các loại (trong đó có 188 máy bay cường kích A-37, 126 tiêm kích F-5, 594 trực thăng UH-1 và 32 máy bay vận tải C-130).

Vu khi chien loi pham giup gi cho KQND Viet Nam?
 Tiêm kích F-5E trong Không quân Nhân dân Việt Nam.

Sau ngày thống nhất đất nước, Quân chủng Phòng không - Không quân nhanh chóng thu hồi chiến lợi phẩm để bảo vệ Tổ quốc. Tính đến cuối tháng 5/1975, bộ đội ta đã thu hồi được 877 máy bay các loại (bao gồm nhiều chiếc chiến đấu cơ F-5E và A-37). Với số máy bay thu được, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập một loạt trung đoàn không quân mới.

Ngày 30/5/1975, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn Tiêm kích 935 sử dụng máy bay F-5A/E và Trung Đoàn Cường kích 937 dùng A-37. Hai trung đoàn có nhiệm vụ tác chiến phòng không, tiến công đường không, giành và giữ quyền làm chủ bầu trời, chi viện bảo vệ lực lượng binh chủng hợp thành.

Tiếp đó, ngày 5/7/1975, Trung đoàn Vận tải 918 được thành lập với trang bị máy bay C-130, C-47 và C-119. Đơn vị làm nhiệm vụ vận tải và có thể tham gia tiến công đường không khi cần.

Ngày 20/7/1975, Trung đoàn trinh sát - vận tải 917 trang bị trực thăng UH-1, CH-47 và máy bay trinh sát L-19, U-17 ra đời. Đoàn 917 có nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực, trinh sát đường không, chỉ thị mục tiêu, đổ bộ vận chuyển/vận tải đường không, cấp cứu.

Trên cơ sở các trung đoàn mới, ngày 15/9/1972, Sư đoàn Không quân 372 được thành lập với biên chế 4 đơn vị trên.

Những trung đoàn không quân này góp công không nhỏ trong chiến dịch biên giới Tây Nam năm 1979 và sau đó là truy quét tàn quân Khơ Me đỏ trong suốt những năm 1980.

Vu khi chien loi pham giup gi cho KQND Viet Nam?-Hinh-2
 Máy bay cường kích A-37 trong biên chế Không quân Nhân dân Việt Nam.

Biến “máy bay bị bỏ rơi” thành “anh hùng”

Trong số các loại máy bay mà ta thu giữ được, 2 chiến đấu cơ F-5A/E và A-37 được coi là những “kẻ bị bỏ rơi” trong lịch sử hàng không quân sự nước Mỹ. Khi mà chính quốc gia sản xuất ra chúng lại không sử dụng chúng làm tiêm kích chiến đấu mà thường viện trợ cho quốc gia đồng minh hoặc dùng để “đóng giả” máy bay địch để phi công Mỹ tập chiến đấu. Ngay cả khi được viện trợ cho Quân đội Sài Gòn, những chiếc F-5E vẫn khá lu mờ, không thể hiện được hết những khả năng của nó.

Nhưng khi được các “bàn tay vàng” phi công Không quân Nhân dân Việt Nam sử dụng, F-5E và A-37 đã phát huy được hiệu quả cao nhất, góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam sau 1975.

Cuối năm 1976, trước những khiêu khích của quân Khmer Đỏ tại biên giới Tây Nam, Trung đoàn 935 đã làm được một việc chưa từng có trong lịch sử hàng không thế giới, dùng 2 tiêm kích F- 5 do hai phi công Đinh Văn Bồng và Nguyễn Hữu Lâm điều khiển để rải truyền đơn tuyên truyền đường lối, quan điểm của Việt Nam về mối quan hệ đoàn kết giữa hai nước.

Tuy nhiên, đáp lại quân Khmer Đỏ vẫn tiếp tục các hành động khiêu khích, đưa quân tấn công vào biên giới nước ta. Trước tình hình đó, quân dân ta đã đứng lên đánh trả quyết liệt và giúp đỡ quân dân Campuchia thoát họa diệt chủng. Các chiến dịch phản công có sự góp sức rất lớn từ lực lượng không quân với máy bay chiến lợi phẩm.

Vu khi chien loi pham giup gi cho KQND Viet Nam?-Hinh-3
 Máy bay A-37 đã nhiều lần trút bão lửa lên đầu quân Khmer Đỏ.

Trong suốt các chiến dịch phản công, Trung đoàn 935 và 937 đã xuất kích hàng ngàn chuyến với biên đội lớn 4-8 chiếc/lần F-5, A-37 không kích mãnh liệt vào sở chỉ huy địch, phá hủy các trận địa phòng thủ, phương tiện, vũ khí…tạo điều kiện thuận lợi cho các sư đoàn bộ binh, xe tăng tấn công tiêu diệt quân Khmer Đỏ.

Đóng góp to lớn của không quân tiêm kích trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Năm 1979, Trung đoàn 935 đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hai phi công F-5 của Trung đoàn gồm Đại úy Lê Khương và Nguyễn Văn Kháng cũng được phong tặng danh hiệu cao quí này.

Bên cạnh đó, trong suốt chiến dịch phản công biên giới Tây Nam, ta cũng sử dụng nhiều lượt máy bay vận tải và trinh sát. Không quân ta đã dùng máy bay vận tải C-130, C-47, C-119 và trực thăng vận tải hạng nặng CH-47 xuất kích chở hàng nghìn lượt quân, đạn dược chi viện đánh địch.

Không chỉ có thể, các kỹ sư Không quân Nhân dân Việt Nam còn áp dụng một số cải tiến nhằm biến máy bay vận tải C-130 thành máy bay ném bom để không kích mục tiêu quân Khmer Đỏ.

Tin mới