Kỳ bí những đạo sĩ luyện phép biến hình, độn thổ ở Thất Sơn

Vị đạo sĩ này không chỉ luyện được phép biến hình, mà còn biến xương thịt thành mình đồng da sắt.

Theo chỉ dẫn của ông Hai Tuấn, tôi tìm đến ngôi mộ hậu chùa Tây An, dược chân núi Sam (Châu Đốc, An Giang). Ngôi mộ được xây dựng khá khang trang. Đó là mộ của ông Đoàn Minh Huyên, một đạo sĩ lừng danh nhất vùng Thất Sơn, là tổ sư của môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương, được người dân vùng Thất Sơn huyền thoại coi là Phật Thầy Tây An.
Theo một số thông tin mà chúng tôi nắm được, ông Huyên từng là một cao thủ trong giới võ, biết được phép biến hình. Tuy nhiên, tài nghệ biến hình của ông như thế nào, thì ngay cả những người nghiên cứu về ông cũng không nắm được.
Mộ ông Đoàn Minh Huyên, người được coi là rất giỏi phép biến hình.
 Mộ ông Đoàn Minh Huyên, người được coi là rất giỏi phép biến hình. 
Chúng tôi lần mò xuyên rừng tìm đến ấp Thiên Tuế, nằm sâu trong núi Cấm, thuộc vùng Thất Sơn huyền thoại, diện kiến vị đạo sĩ đã ngoài 100 tuổi.
Đạo sĩ Ba Lưới nổi danh khắp vùng bởi võ nghệ tài ba, chuyên bốc thuốc cứu người, và đặc biệt là ông đã từng sử dụng thế võ Bình phong lạc nhạn để tiêu diệt 2 con rắn hổ mây khổng lồ.
Là người đã từng có 80 năm tu luyện ở Thất Sơn, theo học rất nhiều đạo sĩ tài ba từ thế kỷ trước, nên đạo sĩ Ba Lưới hiểu khá cặn kẽ những môn phái, đạo phép kỳ bí.
Người thầy đầu tiên của đạo sĩ Ba Lưới là đạo sĩ Trường Sơn, người đã dạy ông thế võ Bình phong lạc nhạn, có khả năng nhảy lên không trung và tung ra 3 đòn hiểm.
Theo ông Ba Lưới, thế võ ấy biến ảo khôn lường đến nỗi, dù ông đã rèn luyện suốt 80 năm vẫn chưa hiểu hết được sự kỳ ảo của nó.
Đạo sĩ Ba Lưới.
 Đạo sĩ Ba Lưới. 
Khi đạo sĩ Trường Sơn tự dưng biến mất, ông Ba Lưới tiếp tục theo học nhiều môn võ khác. Trong số các môn võ, ông bỏ khá nhiều thời gian, công sức luyện môn võ siêu hình (hay còn gọi là võ thần).

Môn võ này do đạo sĩ Đoàn Minh Huyên sáng tạo, truyền dạy cho các đệ tử. Ông Ba Lưới cho biết, khi thuần thục môn võ này, đạo sĩ có thể biến hóa như thần, chớp mắt ở chỗ này, nhưng chớp mắt đã ở chỗ khác.

Đạo sĩ Đoàn Minh Huyên chết đi, môn võ bí ẩn này được truyền lại cho các đệ tử. Các đệ tử của ông luyện tập mỗi người một kiểu, sáng tạo môn võ theo những hướng khác nhau rất đa dạng.

Từ phép biến hình, nhân vật nổi danh vùng Thất Sơn thế kỷ trước là Đơn Hùng Tín, đã luyện thành thuật thiên linh, có khả năng biến hóa thân thể, độn thổ, lặn sông cả ngày không cần thở.

Đơn Hùng Tín đã lợi dụng phép biến hình, tổ chức cướp bóc, khiến cả vùng sông nước miền Tây kinh sợ. Thực dân Pháp đã phải dùng cả một đại đội, với súng ống hạng nặng để tiêu diệt tướng cướp này.

Người thứ hai, chính là đạo sĩ Hùng Đởm, còn gọi là Bảy Đởm. Vị đạo sĩ này không chỉ luyện được phép biến hình, mà còn biến xương thịt thành mình đồng da sắt.

Tuy nhiên, đạo sĩ này cũng đã lợi dụng khả năng phi phàm để gây nhiều tội ác và đã phải đền mạng bởi các chiến sĩ cách mạng.

Ông Ba Lưới bảo: “Phép biến hình là môn phái đặc biệt kỳ dị, nhưng nếu không có tâm sáng, thì nó sẽ khiến người luyện phép thành kẻ u mê, rồi làm việc thất đức. Đó là lý do tui không theo học môn võ này. Giờ thì môn phái biến hình đã thất truyền…”.

Người hiểu rõ về Bảy Đởm nhất vùng Thất Sơn huyền bí là ông Út Xanh, 80 tuổi, hiện sống ở xã Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang), cách núi Cấm Sơn chỉ hơn 10km theo đường chim bay.

Ông Út Xanh tướng mạo phương phi, nhưng đôi chân thoái hóa, đi lại rất khó khăn. Ông sống cùng vợ trong căn nhà nhỏ giữa vườn hoang rậm rạp cây cối.

Người dân trong vùng đồn rằng, ông Út Xanh rất giỏi bùa phép, đặc biệt là bùa Lỗ Ban và Thiên Linh, tức phép biến hình.

Tuy nhiên, khi hỏi chuyện bùa ngải, ông Út Xanh chối đây đẩy, nói rằng ông không biết gì. Sau một hồi trò chuyện, thì ông cũng thú nhận rằng, ba của ông chính là một thầy bùa nổi danh thiên hạ.

Thế nhưng, giỏi nhất về phép biến hình thì phải kể đến ông Mười Chi và ông Bảy Đởm. Hai cao thủ này cùng tuổi với ba ông Út Xanh, quen biết nhau và thường xuyên qua lại nhà nhau, nên ông Út Xanh cũng biết nhiều chuyện về họ.

Hai nhân vật cực kỳ hấp dẫn này đều đã xanh cỏ từ mấy chục năm nay, nhưng danh tiếng của họ thì đến nay vẫn còn nức tiếng Nam kỳ lục tỉnh.

Ông Mười Chi tuy biết phép Thiên Linh biến hình, nhưng ông ít sử dụng môn đó. Ông thường dùng bùa Lỗ Ban và bùa Thủy Hỏa để làm việc tốt. Thi thoảng ông chỉ dùng bùa để trêu chọc người đời cho vui, hoặc hại những kẻ ác, kẻ xấu cho bõ ghét. Những chuyện kỳ lạ, khả năng thượng thừa của ông Mười Chi thì kể cả ngày cũng chẳng hết.

Còn Bảy Đởm là nhân vật khét tiếng, một cao thủ luyện phép biến hình, đã đạt được tới cảnh giới mình đồng da sắt. Tuy nhiên, Bảy Đởm sử dụng tài năng của mình làm nhiều điều ác, nên không có hậu.

Cho đến nay, vẫn chưa có những ghi chép chính xác về thân thế Bảy Đởm, mà đạo sĩ Ba Lưới gọi là Hùng Đởm.

Ông Út Xanh.
Ông Út Xanh.  

Một số ghi chép cho rằng Bảy Đởm có xuất thân không rõ ràng, hồi nhỏ chăn bò thuê cho một gia đình ở Núi Sam. Bảy Đởm được một đạo sĩ tu trong núi dạy võ nghệ, truyền cho phép biến hình. Thành cao thủ, Bảy Đởm không chịu ẩn tu, mà xuống núi thành tướng cướp khét tiếng.

Là người từng gặp Bảy Đởm nhiều lần và cũng đã trò chuyện với Bảy Đởm, nên ông Út Xanh biết khá rõ về thân thế nhân vật khá đặc biệt này.

Theo ông Út Xanh, Bảy Đởm quê ở huyện An Phú (An Giang), là người Chà chính cống. Người Chà ở đây thực ra là người Chăm, có nguồn gốc từ Campuchia, gọi là người Chà Và.

Họ là những nhân công từng đào kênh Vĩnh Tế, rồi được Thoại Ngọc Hầu chia đất vùng Châu Giang, rồi định cư đến ngày nay. Người Chà vùng Châu Giang (An Phú), giáp thành phố Châu Đốc vốn nổi tiếng cả vùng về khả năng làm bùa, luyện Thiên Linh, nên Bảy Đởm có nhiều bùa phép cũng không có gì lạ.

Theo mô tả của ông Út Xanh, Bảy Đởm có thân hình nhỏ bé, đen nhẻm. Hình dáng không có gì đặc biệt, nhưng đôi mắt thì sắc lạnh, toàn lòng trắng, thể hiện con người tàn ác, không có hậu.

Ông Út Xanh cũng khẳng định rằng, những người luyện phép biến hình tiếp xúc với oan hồn nhiều, tà khí vây quanh mình, nên đôi mắt thầy bùa chỉ toàn lòng trắng, nhìn rất hãi.

Để luyện phép biến hình, có hai cách. Cách thứ nhất là dùng sọ của những thiếu nữ đồng trinh, cách thứ 2 là dùng các thai nhi sắp đến ngày sinh đẻ.

Để luyện bùa, thầy bùa phải trực tiếp hoặc gián tiếp sát hại những sinh linh này, chiếm đoạt oan hồn của họ, rồi sai khiến những oan hồn đó làm theo ý mình.

Cả hai phương pháp luyện bùa này đều từng rất phổ biến ở núi Tà Lơn bên Campuchia. Tuy nhiên, phương pháp luyện phép biến hình từ những thai nhi phổ biến hơn, được thầy bùa sử dụng nhiều hơn.

Với mong muốn trở thành cao thủ đệ nhất vùng Thất Sơn, Bảy Đởm đã sang Campuchia, Thái Lan, thậm chí đến tận Myanmar để tầm sư học đạo, luyện phép biến hình.

Còn tiếp…

Đạo sĩ Ba Lưới kể chuyện hạ rắn 500kg như phim chưởng

Nó vừa phóng tới thì tui sử dụng thế võ Bình phong lạc nhạn, tung người lên không trung. Con rắn vồ hụt mồi, chưa kịp quay đầu lại, thì chiếc quéo tui cầm trên tay đã cắt đứt đầu nó.
[links()]
Như kỳ trước bài báo đã nêu, đạo sĩ Ba Lưới huyền thoại của vùng Thất Sơn khẳng định cả đời rèn đức, học đạo, chứ không bao giờ có ý định giết rắn. Loài hổ mây khổng lồ tuy có sức mạnh vô song, đủ sức nuốt bò, phóng trên đọt cây như giông bão, nhưng hầu như chúng không hại người, nên các đạo sĩ cũng không có lý do gì để giết chúng.

Sở dĩ, đạo sĩ Ba Lưới phải hạ thủ rắn hổ mây, vì chúng tìm cách tấn công, đòi ăn thịt ông. Đường cùng, ông mới phải sử dụng quyền cước tu luyện cả đời để chống lại chúng.
Cặp rắn bê-tông ông Sơn đắp ở núi két để... dọa rắn hổ mây.
Cặp rắn bê-tông ông Sơn đắp ở núi két để... dọa rắn hổ mây.

- PV: Trong hoàn cảnh con rắn ngáng đường, định tấn công, sao ông không tìm cách tránh nó?

Đạo sĩ Ba Lưới: Loài hổ mây chạy như gió cuốn, bão giông, nên nó đã chí ăn thịt ai, thì người đó không thể thoát được. Nếu lúc đó tui không vững tâm, mà chạy trốn, thì nó sẽ phóng theo nuốt chửng. Tui chẳng còn cách nào ngoài việc đối mặt với nó.

- Chắc rằng ông sử dụng thế võ mà ông hay gọi là Bình phong lạc nhạn?


Khi tui thủ thế với chiếc đòn trong tay, nó chuyển động cái đầu, sàng qua sàng lại, rồi đột ngột há miệng chụp thẳng xuống đầu tui. Tui dùng thế Bình phong lạc nhạn tung người lên không trung vừa tránh cú chụp của nó, vừa vung đòn liên tiếp vụt vào sống lưng và cổ nó.

Các cụ bảo đánh rắn đánh vào sống lưng, nhưng con rắn hổ mây to quá, da dày, nên vụt vào sống lưng nó chẳng ăn thua gì. Trúng mấy cú đánh, con rắn càng hung dữ. Nó thu người, cất đầu lên cao, rồi chụp xuống liên tục. Lúc này tui mới hiểu được giá trị của thế võ Bình phong lạc nhạn mà thầy tui truyền cho. Với khả năng bật lên không trung, bay qua vồ (mỏm đá, mỏm núi), tui mới tránh được những cú mổ của con rắn khổng lồ.

Lúc đó, cả cảnh rừng như có giông bão. Cây cối rung bần bật. Con rắn càng đánh càng hăng. Tui dù khỏe thế, nhưng đối phó với nó mãi thì có dấu hiệu đuối sức. Khi đó tui nghĩ nếu không hạ được nó sớm, thì chắc chắn bị nó ăn thịt.

Sau cú mổ trượt, tui phi thân ra phía đuôi nó, để nó mất thời gian đổi hướng. Tui thủ thế, tập trung năng lượng tinh thần để ra đòn quyết định. Con rắn cũng cất đầu lên tận ngọn cây, từ từ hạ xuống cách đầu tui vài mét. Đôi mắt nó đỏ rực. Có vẻ như nó cũng sẽ ra đòn quyết định với tui.

Nó há cái miệng đỏ lòm, rồi chụp xuống rất mạnh. Tui lùi lại 3 bước tránh cú mổ của nó. Tui bật lên tận ngọn cây. Con rắn chụp trượt thì cất đầu lên tính chụp tiếp, còn tui từ trên không rơi xuống. Tui tung liên tiếp 3 cú đánh trúng đầu. Cú đánh cuối cùng khiến chiếc đòn gãy đôi.

Tui rơi xuống trong tư thế vững vàng, sẵn sàng tiếp tục chiến đấu, nhưng con rắn thì đổ oặt xuống đất. Đầu nó bất động, nhưng thân còn vùng vẫy mãi mới chịu thôi.
 
Tui phải ra liền 3 đòn, mới hạ được nó. Đòn thứ nhứt tui đập bể sọ nó, còn đòn thứ nhì, thứ ba, tui đập vỡ óc nó. Lúc đó, tui lại ngộ thêm ra được công năng đặc biệt của thế võ này. Do vậy, sau đó, tui càng tập luyện kỹ càng để hoàn thiện hơn.

Đạo sĩ trăm tuổi ẩn tu luyện võ diệt rắn hổ mây

Nhắc đến rắn hổ mây, hay những huyền thoại về vùng Thất Sơn, không thể không nhắc đến đạo sĩ Ba Lưới. Ông không chỉ là đạo sĩ cuối cùng của vùng Thất Sơn huyền thoại, mà ông còn là người từng có những trận thư hùng vang danh cả vùng với cọp và rắn hổ mây khổng lồ.

Thất Sơn, hay còn gọi theo tên nôm là Bảy Núi. Vùng đất giáp biên giới Campuchia thuộc tỉnh An Giang bỗng đột khởi 7 quả núi thiêng. Trong số đó, núi Cấm cao nhất, tới 700m so với mặt nước biển, và cũng được coi là quả núi linh thiêng nhất vùng.

Từ ngày xảy ra vụ lở khối đá ngàn tấn, đè chết mấy người, con đường lên núi bị chặn lại. Du khách muốn lên đỉnh Thất Sơn buộc phải cuốc bộ, hoặc thuê xe ôm đi len lỏi trong rừng. Đoạn nào không có đường thì cuốc bộ.

Lần mò cả buổi ở chân núi, rồi tôi cũng thuê được người dẫn đường. Xe máy chạy đến đầu ấp Thiên Tuế (An Hảo, Tịnh Biên) thì dừng lại, vì không còn đường. Tiếp tục cuốc bộ chừng hơn tiếng đồng hồ, len lỏi trong rừng, đến hết con đường mòn, thì ngôi nhà gỗ hiện ra, chênh vênh vách núi, ẩn hiện trong lùm cây.
Núi Cấm.
Núi Cấm.
Người dân trong vùng gọi vách núi này là Long Hổ Hội. Đạo sĩ Ba Lưới sống cùng gia đình trong thung lũng này, tách biệt hoàn toàn với ấp Thiên Tuế.

Khi chúng tôi đến, đạo sĩ Ba Lưới đang thong thả hái thuốc trong vườn. Quanh ngôi nhà gỗ của ông là những vườn thuốc, do ông gieo trồng, chăm sóc.

Đạo sĩ Ba Lưới mang hình dạng đúng như tưởng tượng của tôi. Mái tóc dài trắng như cước được buộc tó. Đầu quấn khăn. Bộ râu trắng toát dài chấm ngực.

Thật khó tin, khi đã tròn 100 tuổi, mà ông vẫn trồng thuốc, hái thuốc, bốc thuốc cứu người. Trong vùng, hễ ai bị rắn độc cắn, đều tìm đến nhờ vả ông. Độc rắn loại gì ông cũng hóa giải được.

Nhấp mấy chèn trà, mất dăm phút hồi tưởng, ông mới bắt đầu câu chuyện đời mình. Đó là một tuổi thơ đầy khốn khó, rồi những cơ duyên kỳ lạ ở vùng núi rừng rú, thâm u này.

Đạo sĩ Ba Lưới tên thật là Nguyễn Văn Y. Quê ông ở Chợ Mới (An Giang). Gia đình đông con, nên đói kém và thất học. Năm 19 tuổi, nghe người dân đồn trên núi Cấm có nhiều đạo sĩ có công năng kỳ dị, nên ông quyết định rời gia đình tầm sư học đạo.

Sinh ra ở vùng sông nước, ngày ngày kiếm cá đổi cơm, nên đi đâu ông cũng dắt manh lưới bên mình. Có mảnh lưới đánh cá thì không sợ chết đường chết chợ. Vậy nên, hồi vác lưới lên Núi Cấm, mấy đạo sĩ thấy ngộ, nên gọi ông là Ba Lưới. Cũng từ đó, chẳng ai nhớ đến cái tên Nguyễn Văn Y của ông nữa.

Những năm 1930 của thế kỷ trước, vùng Thất Sơn, trong đó núi Thiên Cấm Sơn là nơi có nhiều đạo sĩ ẩn danh tu luyện. Họ có thể là những cao nhân muốn lẩn trốn thế sự, cũng có thể là những chí sĩ cách mạng tạm thời ẩn thân trong rừng chờ thời cơ.

Hàng ngày, các đạo sĩ trồng trọt, hái thuốc, đêm xuống luyện võ nghệ. Ngày đó, vùng Thất Sơn rừng rú hoang rậm, cọp beo đi thành đàn, rắn độc, đặc biệt là rắn khổng lồ bò lổm ngổm trong rừng, do đó, ai muốn sống trong rừng, phải có võ nghệ cao cường. Không có sức khỏe phi thường, võ nghệ tinh thông cùng tài bốc thuốc thì không thể sống được ở vùng rừng thiêng nước độc này.
 Đạo sĩ Ba Lưới và ngôi nhà giữa rừng.
Đạo sĩ Ba Lưới và ngôi nhà giữa rừng.
Là người có sức khỏe, trí thông minh, lại chăm chỉ học hỏi, nên chàng trai Ba Lưới được nhiều đạo sĩ dạy dỗ, đào tạo. Có đạo sĩ dạy ông cách luyện khí công, đạo sĩ dạy thuốc, đạo sĩ dạy võ. Người thầy dạy ông ít nhất, nhưng để lại nhiều hoài niệm nhất trong ông là đạo sĩ Trường Sơn.

Trong lần hái thuốc, đi sâu vào rừng già, ông gặp một túp lều cỏ. Trong lều có một đạo sĩ tóc dài phủ vai, râu buông đến ngực. Biết đây là cao nhân ẩn tích, nên chàng trai Ba Lưới đã bái làm thầy.Vị đạo sĩ này bảo: “Phép tu của ta rất đơn giản, chỉ là một chữ Đạo. Nếu ngươi theo ta, thì chỉ có thể học được chữ Đạo mà thôi”.

Biết vị đạo sĩ này là kỳ tài, nên chàng trai Ba Lưới bái sư, rồi ở lại lều cỏ. Hàng ngày, Ba Lưới theo thầy đi hái thuốc. Hái cây thuốc nào, ông lại chỉ cho Ba Lưới biết công dụng.

Ở với đạo sĩ Trường Sơn chừng hơn một năm, thì Ba Lưới học được cả trăm bài thuốc, chữa đủ các loại bệnh. Trong đó, bài thuốc trị rắn cắn là đặc biệt nhất. Vậy nên, trong đời đạo sĩ Ba Lưới, ông đã cứu hàng ngàn người thoát khỏi án tử vì bị rắn độc cắn.

Mãi đến sau này, đạo sĩ Ba Lưới mới hiểu chữ Đạo cao quý làm sao. Sử dụng các bài thuốc để cứu người cũng là một cách tu đạo.

Một đêm, đạo sĩ Trường Sơn nói với học trò Ba Lưới: “Ta có cả trăm thế võ nên dù có dạy con cả đời cũng không hết được. Tuy nhiên, ta sẽ chỉ truyền cho con một thế võ mà thôi. Ta mong con học đến nơi đến chốn”.

Thế võ mà vị đạo sĩ bí ẩn ấy truyền cho Ba Lưới có tên Bình phong lạc nhạn. Ông chỉ dạy một đêm là xong. Ông dặn Ba Lưới rằng: “Thầy cho con thanh danh tính được. Con có thành tài hay không phụ thuộc vào tính kiên trì và đạo đức của con”. Nói rồi, đạo sĩ nhún chân, nhảy vọt một cái. Chớp mắt, ông đã ở bên kia thung lũng và biến mất trong đêm trăng sáng vằng vặc.

Cho đến tận bây giờ, đạo sĩ Ba Lưới vẫn không nắm được chút gì về người thầy của mình. Đạo sĩ Trường Sơn đến từ đâu, tên thật là gì, tu luyện theo phái nào, ông cũng không biết. Người thầy ấy như thể vị tiên từ trên trời xuống.

Đạo sĩ Ba Lưới bảo: “Hôm thầy biến mất tui buồn lắm, ngồi khóc cả buổi. Thầy đi mà chỉ để lại cho một thế võ thì làm sao thành tài được. Nhưng nghe lời thầy, tui cũng chịu khó rèn luyện. Càng rèn, tui càng thấy thế võ biến hóa kỳ ảo khôn lường. Đến bây giờ, tui vẫn chưa hiểu hết được sự biến ảo của thế võ này”.

Bản chất của thế võ là nhảy lên không trung và tung ra liên hoàn cước. Mức tối thiểu là phải ra được 3 cước cực mạnh trong mỗi cú nhảy lên không trung.

Ngôi chùa nào ở vùng Thất Sơn cũng có tượng rắn khổng lồ ở cổng.
Ngôi chùa nào ở vùng Thất Sơn cũng có tượng rắn khổng lồ ở cổng.
Để rèn đôi chân, hàng ngày Ba Lưới gánh 150 kg đá lên tận đỉnh núi Cấm, rồi lại gánh xuống. Gánh nặng như thế, song ông chạy băng băng. Lúc bỏ gánh đá xuống, kết hợp với kỹ thuật dẫn khí, ông thấy cơ thể vô cùng nhẹ nhõm, như thể bay lên được.

Để rèn thêm võ nghệ, Ba Lưới còn bái nhiều đạo sĩ nữa làm thầy. Ông theo học cả môn phái của đạo sĩ Đoàn Minh Huyên, với các thế võ thần, hay còn gọi là siêu hình, rồi cả môn võ rồng khiến dao đâm vào người chẳng ăn thua gì.

Tuy nhiên, có một điều ông Ba Lưới nhận ra, đó là, càng tìm hiểu những môn võ khác, ông càng thấy được quyền năng thượng thừa của thế võ Bình phong lạc nhạn mà đạo sĩ Trường Sơn truyền dạy cho ông.

Đạo sĩ Ba Lưới chỉ tay sang bên kia vách núi bảo: “Khe núi này rộng chừng 20 mét. Ngày trước, tui tập trung tinh thần, khi thăng hoa, tui nhảy một cái sang bên kia”.

Lợn rừng ở vùng Bảy Núi xưa kia nhiều vô kể. Những con lợn độc chiếc, nặng đến 200 kg là nỗi ám ảnh của người dân. Không ít người lên nương bị những con lợn với cặp răng nanh nhọn hoắt này húc chết. Nhiều người thành tật hiện vẫn còn sống quanh núi Cấm vì lợn rừng húc.

Đạo sĩ Ba Lưới đi rừng nhiều, nên có vô số lần bị lợn rừng độc chiếc khổng lồ tấn công. Tuy nhiên, với thế Bình phong lạc nhạn, ông dễ dàng thoát khỏi sự tấn công của nó. Ông chỉ tránh đòn và để cho nó sống sót.

Cũng với thế Bình phong lạc nhạn, đạo sĩ Ba Lưới đã hạ thủ một con cọp 200 kg, khi nó đã ăn thịt một số người dân trong vùng. Ông nhảy vọt lên không trung, vừa tránh đòn con cọp, vừa ra tung liên hoàn cước trúng chỗ hiểm, khiến con cọp chết thẳng cẳng.

Tuy nhiên, tên tuổi đạo sĩ Ba Lưới chỉ nổi lên như cồn khắp vùng Thất Sơn và đi vào huyền thoại, khi ông sử dụng thế võ đặc biệt của mình để hạ thủ 2 con rắn hổ mây khổng lồ khi nó cố tình tấn công ông.

Ồn ào chuyện kì bí về rắn khổng lồ ở Việt Nam

(Kiến Thức) - Dọc theo dải đất Việt Nam, những câu chuyện nhuốm màu sắc bí ẩn về các loài rắn khổng lồ xuất hiện ở nhiều địa phương khác nhau.

U Minh Hạ: Thánh địa của rắn hổ mây khổng lồ
Những bậc cao niên ở khu rừng U Minh Hạ luôn quả quyết rắng rằng nơi đây chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây (rắn hổ mang chúa) khổng lồ. Trải qua hàng trăm năm, loài rắn này đã được tôn là mãng xà vương của rừng U Minh Hạ.

Tin mới