“Lên đồng” với đống sắt vụn ròng rã cả năm trời, đôi bàn tay thô ráp của anh nông dân mới học hết lớp 7 đã tạo ra một chiếc máy cày chạy bằng động cơ xe gắn máy phù hợp với mọi địa hình trung du miền núi, khiến cả miền sơn cước kinh ngạc.
Kẻ gàn “lên đồng” với sắt vụn
Một ngày đầu năm 2012, nhìn những người nông dân nhọc nhằn vận chuyển chiếc máy cày lên một thửa ruộng bậc thang cao vời vợi bên hiên nhà, loay hoay mãi cả nhóm mới cho chiếc máy cày to lớn leo lên được thửa ruộng cao ngất. Nhưng tai nạn bất ngờ xảy ra, chiếc máy cày nặng nề trượt bánh, răng bừa nhọn hoắt đâm xuyên vào đùi một người trong nhóm, máu tuôn ra đầm đìa.
Nhìn cảnh đó, anh Bùi Sỹ Tới 39 tuổi, ở thôn Trung tâm, xã Nậm Búng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái không khỏi chạnh lòng và tự hỏi “sao mình không chế tạo ra loại máy cày nhỏ gọn cho đỡ sức người vận chuyển?”. Đâu có ai biết, câu hỏi vu vơ chỉ thoáng qua đó lại chính là nguồn cảm hứng để sau này anh trở thành “cha đẻ” của những chiếc máy cày siêu nhỏ, dùng đôi bàn tay thô ráp cải tiến cái động cơ xe máy sắp trở thành hàng phế liệu thành một chiếc máy cày hoàn chỉnh.
Những ngày đầu, câu hỏi trăn trở ấy theo anh đi sâu vào cả giấc ngủ. Hình ảnh chiếc máy cày loại nhỏ phù hợp với mọi địa hình đồi dốc xuất hiện méo mó trong đầu anh như một cuốn phim quay chậm. Không dừng lại ở ý tưởng, ngay hôm sau anh bắt tay vào công việc nghiên cứu chế tạo máy cày.
Chưa có kinh phí để mua trang thiết bị, anh tận dụng mọi thứ có sẵn trong nhà. Động cơ máy cày được anh tháo ra từ chiếc xe máy cà tàng vứt trong xó nhà. Như một kỹ sư lành nghề anh kẻ, vẽ, đục, đẽo... Suốt ngày đêm tiếng búa chan chát vang rền khắp cả vùng quê nghèo Nậm Búng. Những chiếc bánh lồng dành cho cày, bừa, rồi đến cả răng bừa, lưỡi cày cũng như thân máy đều được anh thu mua từ hàng “đồng nát” sau đó tái chế lại.
Không chỉ gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn đủ thứ trong những ngày đầu chế tạo máy mà anh Tới còn bị nhiều người gọi là kẻ “gàn”, “dở hơi”. Kể cả vợ anh - chị Phạm Thị Thu - cũng hết sức phản đối, bởi anh không chăm lo làm ăn mà cứ suốt ngày “lên đồng” với đống sắt vụn, nhiều khi đang lúc nửa đêm anh vắt tay lên trán suy nghĩ rồi thở dài nghe não nề. “Có hôm đang ngủ anh bật dậy lạch cạch hàn xì, làm các con mất ngủ theo” - chị Thu phàn nàn. Khuyên can nhưng anh Tới vẫn chẳng nghe, nói nhiều quá anh lại bỏ ăn nên sau chị Thu không dám chen ngang vào công việc anh làm.
Bỏ ngoài tai những lời chê cười, phản đối của vợ con và hàng xóm, anh vẫn kiên trì với đống sắt vụn. Việc chuyển từ động cơ xe máy sang làm máy cày lúc đầu nhìn tưởng dễ, nhưng hóa ra lại vô cùng khó khăn. Anh phải thay đổi cơ chế cài số của xe máy từ chế độ dùng chân đạp số sang chế độ gạt cần số bằng tay. Số 1, số 2 dùng cho việc cày, di chuyển lên dốc, còn số 3, số 4 dành cho việc bừa đất.
Mãi rồi cũng đến ngày chiếc máy cày được lắp ráp hoàn chỉnh, anh đưa ra cánh đồng bên nhà chạy thử nghiệm thì hỡi ôi, số 1, 2 thì dùng được, còn số 3, 4 “phi” nhanh còn hơn cả ngựa hoang. Chàng “kỹ sư” trẻ lại tiếp tục nghiên cứu, mày mò và cuối cùng chiếc máy cày mini chạy bằng xăng đã vận hành như ý muốn, không còn “bất kham” như trước.
Chiếc máy của nhà nông
Anh Tới hóm hỉnh kể lại: “Khó khăn lớn nhất lúc này không phải là chế tạo ra máy cày mà chính là việc chế... lưỡi cày”. Vào một buổi chiều, sau khi ngắm chán chê sản phẩm của mình tưởng như đã hoàn thiện đến mức không thể hoàn thiện hơn được, anh “kỹ sư” mang máy ra thửa ruộng hôm nọ cày thử. Khi máy cày khởi động số 1, lưỡi cày vừa ngoạm xuống, đất đá văng ra bốn phía mịt mù.
Mặt buồn thiu nhìn lưỡi cày “phản chủ”, anh không nản lòng mà vẫn tiếp tục cải tiến sản phẩm của mình. Sau nhiều đêm thức trắng, anh Tới mang con “bê sắt” ra thửa ruộng cũ cày thử, lần này đất không còn bắn ra xung quanh, nhưng đất cày không được sâu, đã vậy đất lại không lật úp xuống - đó là điều tối kỵ của nhà nông.
![]() |
“Kỹ sư” Bùi Sỹ Tới sáng chế ra loại máy cày siêu nhỏ giúp nông dân thuận tiện hơn khi làm việc trên những mảnh ruộng bậc thang. |
Không bỏ cuộc, “kỹ sư” Tới tiếp tục cải tiến, rồi lại mang máy cày ra thửa ruộng hôm nọ thử nghiệm. Kết quả làm anh mừng rỡ khôn xiết, “lần đó nhìn lưỡi cày khá sâu, đất lật úp được”. Nhìn những thửa ruộng bậc thang cao ngút chân mây có nhiều sỏi đá rắn chắc như thách thức, anh quyết định cho máy lên đó thử sức. Chiếc máy cày di chuyển khá ì ạch, lưỡi cày vừa chạm đất chưa đi được bao xa gặp phải đá cứng đã gãy tan tành. “Cay cú”, anh lại lao đầu vào nghiên cứu, nuôi hy vọng “phục thù”.
Lại một lần chinh phục nữa, chiếc máy cày đã được cải tiến động cơ leo dốc nhanh chóng, nhẹ nhàng, cày xong một sào ruộng toàn sỏi đá mà lưỡi cày vẫn không bị sứt mẻ. Anh vui mừng khôn xiết, nhưng không được bao lâu, anh chợt nhớ ra “lúc đó tôi chỉ mới thử nghiệm trên đất khô, đất cao mà chưa cho thử trên đất bùn ngập nước. Khi cho máy cày xuống ruộng sâu, máy di chuyển được một đoạn đất đã ôm bám chặt lấy lưỡi cày”. Anh lại tiếp tục cải tiến cho sản phẩm của mình hoàn thiện đến giai đoạn cuối cùng.
Niềm vui nhân đôi trong ngày thử nghiệm với sự có mặt đầy đủ của bạn bè cũng như gia đình. Chiếc máy cày mini nặng 85kg, cao 80cm, rộng 85cm, dài 1,6m được đưa xuống ruộng sâu di chuyển hết sức nhẹ nhàng, từng luống đất bằng phẳng nối tiếp nhau chạy dài. Nhớ lại giây phút đó, “kỹ sư” Tới giọng vẫn không hết run run: “Lúc đó tôi mừng quá, không gì có thể tả nổi. Thế là máy cày của tôi đã leo được địa hình dốc cao ruộng bậc thang, cày được tất cả các loại ruộng miền trung du, phù hợp cho việc xới cỏ giữa các luống càphê và mía”.
Tiếng reo trên ruộng bậc thang
Chế tạo ra máy đã khó, làm sao thuyết phục mọi người tin dùng lại càng khó hơn. Ngay sau khi chiếc máy cày “cổ quái” ra lò, mọi người cũng nhìn nó với con mắt “quái cổ”. Để đưa sản phẩm của mình đến với mọi nhà, anh Tới đã mất không một mùa vụ mùa dùng ngay chiếc máy đời đầu đi cày, bừa “khuyến mại” cho bà con nông dân. Nhờ có những tính năng ưu việt hơn hẳn loại máy cày chạy bằng dầu nặng cồng kềnh không phù hợp với địa hình đồi núi, sản phẩm của anh đã được bà con “tâm phục khẩu phục” tin dùng.
Tiếng lành đồn xa, đến tận các tỉnh ngoài như Lai Châu, Sơn La..., rồi đến cả mấy anh, chị trồng caosu xa tít mãi tận ở Bình Dương, Bình Phước cũng tìm đến mua sản phẩm. “Tôi cũng không ngờ máy cày mình làm ra lại được bà con đón tiếp nồng nhiệt như vậy”. Bà con trong thôn, trong xã thì tự hào và “phục” anh lắm. “Ở đây, ở cái xã Nậm Búng này, ai chả biết đến phát minh có một không hai đó của anh Tới” - ông Phạm Bá Dư, Chủ tịch UBND xã Nậm Búng hào hứng khoe.
Hiện nay trong phân xưởng sản xuất chỉ rộng có 60m2, anh Tới đã thuê 9 công nhân giúp việc, chủ yếu là anh em quanh thôn với thu nhập từ 3-5 triệu đồng/tháng. Trung bình mỗi ngày anh cho ra lò 1 máy cày với nhiều giá thành khác nhau, loại máy có động cơ xe máy được nhập mới hoàn toàn giá cao nhất cũng chỉ 10 triệu đồng, loại tái chế giá cũng tầm 6-8 triệu được anh bảo hành 1 năm. Câu chuyện với anh Tới luôn bị đứt quãng do anh luôn phải trả lời đơn đặt hàng của khách. Sau khi gác điện thoại, anh hồ hởi: “Khách phải đặt hàng trước vài tháng thì mới nhận được hàng, còn gọi lấy luôn thì tôi không dám nhận”.
Do thiếu vốn để đầu tư mở rộng phân xưởng nên hoạt động sản xuất vẫn cầm chừng. Xưởng mới có một máy hàn, một máy cắt, chưa có máy tiện, máy uốn sắt thép nên nhiều khi sản phẩm chưa có độ chuẩn xác cao, mỗi ngày anh em làm việc cật lực cũng chỉ tạo ra được một sản phẩm. Nhiều khi có thêm sáng tạo nhưng do thiếu thốn đủ thứ nên những phát minh đành để “đắp chiếu”. Sắp tới trên máy cày anh sẽ lắp đặt thêm bộ băm tơi xốp đất, máy xới cỏ, máy phun thuốc trừ sâu thực hiện một lúc nhiều tính năng nhằm giảm sức lao động cho người dân.
Hiện anh làm đơn lên Cục Sở hữu trí tuệ để đăng ký bản quyền cho chiếc máy cày mini của mình. Anh cũng mong muốn sẽ được các doanh nghiệp hợp tác đầu tư cả vốn, kỹ thuật để anh mở rộng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người dân và nếu có thể anh sẽ chuyển giao toàn bộ công nghệ sản xuất cho đối tác, để chiếc máy cày mini của mình có thể giúp nhiều bà con nông dân giảm chi phí sản xuất cũng như sức lao động.