Lý do khiến Trung Quốc khó thành công với chiến lược 'zero COVID-19'

Một nhà khoa học nổi tiếng từng giúp Trung Quốc khống chế dịch SARS cho rằng việc duy trì cách tiếp cận “zero COVID-19” của nước này sẽ khó đạt hiệu quả.

Theo báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, trong cuộc phỏng vấn với Phoenix TV hôm 9/11, ông Guan Yi, nhà khoa học nổi tiếng từng giúp Trung Quốc ngăn chặn đợt bùng phát virus SARS lần thứ 2 vào năm 2004, cho rằng phương pháp tiếp cận “không khoan nhượng với COVID-19” của nước này sẽ khó thành công vì virus đã hoàn toàn thích nghi với con người và chúng ta không thể loại bỏ nó.
Ly do khien Trung Quoc kho thanh cong voi chien luoc 'zero COVID-19'
 Người dân xếp hàng chờ xét nghiệm COVID-19 ở tây bắc Trung Quốc. Ảnh: Xinhua
Ông nhấn mạnh.“Chính quyền địa phương đang áp dụng chiến lược ‘zero COVID-19’ đối với các đợt bùng dịch lẻ tẻ. Nhưng nếu vẫn duy trì cách tiếp cận này, tôi nghĩ nền kinh tế của chúng ta sẽ sụp đổ. Tôi nghĩ sẽ không có kết quả nếu chúng ta đặt mục tiêu loại bỏ tất cả các ca mắc bệnh. Tương tự bệnh cúm, virus SARS-Co-2 gây đại dịch COVID-19 đã thích ứng với cơ thể người và sẽ tồn tại lâu dài với chúng ta. Đó là sự thật cho dù có muốn hay không. Chúng ta không nên tuyên bố chiến thắng COVID-19 quá sớm, nếu không chúng ta sẽ đánh giá thấp tác động của nó đối với con người”.
Ông Guan cho rằng chúng ta có thể ngăn chặn đợt bùng phát hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng SARS năm 2002-2003 vì virus chưa hoàn toàn thích nghi với con người. Ông Guan là nhà khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mèo cầy là vật chủ trung gian lây truyền virus SARS. Vào tháng 1/2020, chuyên gia này từng nhận định với trang Caixin rằng tác động của virus SARS-CoV-2 sẽ tồi tệ hơn gấp 10 lần so với SARS.
Ly do khien Trung Quoc kho thanh cong voi chien luoc 'zero COVID-19'-Hinh-2
 Nhân viên cộng đồng giao thực phẩm và các nhu yếu phẩm cho một cư dân Thuỵ Lệ trong thời gian phong toả. Ảnh: Xinhua
Trong cuộc phỏng vấn với Phoenix TV, ông Guan cho biết một cặp vợ chồng đã nghỉ hưu gần đây có liên quan đến một loạt các ca mắc ở các tỉnh khác nhau. Từ trường hợp này, ông cho rằng Trung Quốc nên tìm hiểu mức độ kháng thể của người dân sau tiêm chủng, thay vì dành quá nhiều nguồn lực cho việc xét nghiệm để xác định các trường hợp dương tính.
“Mức độ kháng thể vô hiệu hóa virus do vaccine tạo ra và nó có thể tồn tại trong bao lâu. Chỉ bằng cách xác định điều đó, bạn mới có thể xác định hiệu quả của vaccine. Chúng ta cũng phải tìm hiểu khả năng miễn dịch có thể kéo dài bao lâu sau khi tiêm vaccine. Một số người có thể sẽ hết kháng thể khi mà mùa đông chưa kết thúc, vì lượng kháng thể giảm xuống có thể vượt quá tốc độ phân phối vaccine”.
Ly do khien Trung Quoc kho thanh cong voi chien luoc 'zero COVID-19'-Hinh-3
 Một điểm xét nghiệm COVID-19 ở Thuỵ Lệ, Trung Quốc. Ảnh: Getty Images
Trung Quốc đang thực hiện xét nghiệm bắt buộc hàng loạt mỗi khi phát hiện ca nhiễm mới ở khu vực nào đó. Trong khi đó, xét nghiệm máu xác định kháng thể sẽ giúp tìm ra liệu vaccine có tạo ra đủ kháng thể để bảo vệ một người trước nguy cơ mắc bệnh nặng hay không. Với hàng tỷ dân đã được tiêm chủng, các nhà khoa học hiện có nhiều dữ liệu hơn để so sánh các loại vaccine, nhưng vẫn chưa có một tiêu chuẩn thống nhất cho mức kháng thể có thể bảo vệ con người trước COVID-19. Ông Guan cho rằng các nhà sản xuất vaccine cần có trách nhiệm cập nhật cho công chúng về hiệu quả của vaccine đối với các biến thể khác nhau.
Ông cho biết Trung Quốc đang điều hành một phòng thí nghiệm ở Sán Đầu để đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị COVID-19 và phát triển loại thuốc uống kháng virus cho căn bệnh này. Chuyên gia này nói rằng rất khó để các nhà khoa học ở các quốc gia hợp tác cùng xây dựng mạng lưới giám sát toàn cầu, tương tự như mạng lưới giám sát dịch cúm, vì căng thẳng giữa các nước và chính trị hóa nghiên cứu. Ông cho rằng nếu không có mạng lưới toàn cầu để theo dõi các đột biến của virus và xác định vaccine thích hợp, sẽ rất khó để phát triển các loại vaccine hiệu quả.
Trung Quốc đã bắt đầu tiêm vaccine COVID-19 nhắc lại cho người dân sau khi hoàn thành tiêm chủng cho gần 80% trong tổng số 1,4 tỷ dân và bắt đầu tiêm phòng cho trẻ em. Tuy nhiên, quốc gia này đang phải vật lộn với những đợt bùng phát dịch lẻ tẻ. Đợt bùng phát mới nhất đã lan ra ít nhất 20 tỉnh và khu vực.
Đây được đánh giá là đợt bùng dịch lây lan rộng nhất tại Trung Quốc kể từ sau đợt bùng phát ở Vũ Hán hồi cuối năm 2019. Hôm 9/11, Trung Quốc ghi nhận 43 ca nhiễm cộng đồng có triệu chứng, 19 ca nhập cảnh và 74 ca không triệu chứng, sau nhiều ngày xét nghiệm hàng loạt và cách ly nhiều khu vực.

Tháng 10 mở cửa của các nước châu Á

Khi mô hình "Zero Covid-19" - từng khiến nhiều nước châu Á trở thành hình mẫu chống dịch vào năm 2020 - không còn tác dụng, khu vực này chuyển dần sang sống chung với virus.

"Việt Nam phải tìm ra con đường trung gian trong việc thực hiện biện pháp hạn chế, truy vết nhưng đồng thời mở cửa một số phần", ông Yves Tiberghien - giáo sư khoa học chính trị, đồng thời là giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á tại Đại học British Columbia, Canada - nói với Zing. Tại Việt Nam, giáo sư Yves Tiberghien nhận định cái giá phải trả khi thực hiện giãn cách vào mùa hè này là rất cao.

Bắt đầu từ ngày 1/10, các hoạt động được khôi phục một phần ở TP.HCM. Đó cũng là xu hướng chung trong tháng 10 của các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, khi tỷ lệ phủ vaccine tăng lên và nhiều nước (trừ Trung Quốc, tính đến hiện tại) nhận thấy họ không thể tiếp tục theo đuổi chiến lược "Zero-Covid" một thời là hình mẫu chống dịch của thế giới.

Nhật Bản đang lên kế hoạch bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, nới lỏng một số hạn chế, bao gồm cho phép các nhà hàng phục vụ rượu. Người đã được tiêm chủng đầy đủ cũng có thể đi du lịch kể từ mùa thu này.

Dù có số ca mắc còn cao, Hàn Quốc cũng hướng đến trạng thái bình thường mới trong phòng chống Covid-19, với hy vọng sẽ tiêm đủ 2 mũi vaccine cho 80% người trưởng thành trước cuối tháng 10.

Tại Malaysia, chính phủ nước này dự kiến tiếp tục nới lỏng biện pháp phòng chống dịch bệnh, bao gồm cho phép người dân đi lại xuyên bang trước giữa tháng 10. Trong khi đó, Tổng thống Joko Widodo đã kêu gọi tất cả người dân Indonesia chuẩn bị sống chung với Covid-19 vì đại dịch này sẽ sớm biến thành một loại bệnh đặc hữu.

Singapore, nước có tỷ lệ tiêm chủng cao nhất khu vực và có lộ trình mở chi tiết từ sớm, lại đang đối mặt với làn sóng ca nhiễm tăng đột biến trong tuần qua. Nước này vẫn thận trọng mở cửa dần trong lúc bắt đầu triển khai tiêm mũi thứ 3 cho người già và người có nguy cơ cao.

Thang 10 mo cua cua cac nuoc chau A
Sự xuất hiện của biến chủng Delta khiến mô hình chống dịch nhiều nước phải thay đổi. Ảnh: Reuters. 
Áp lực kinh tế - xã hội lớn của "Zero Covid-19"

Nguy cơ bùng dịch tại Hà Nội khi liên tiếp phát hiện ca cộng đồng

Dù không thể đưa về “Zero Covid-19”, Hà Nội vẫn cần nhanh chóng kiểm soát các ca nhiễm nCoV ở cộng đồng, trong khi người dân phải đảm bảo 5K.

Chỉ sau hơn 24 giờ vừa qua, Hà Nội đã ghi nhận liên tiếp 7 trường hợp dương tính với SARS-CoV-2 trong cộng đồng. Thậm chí, một người trong số đó còn liên quan trực tiếp tới cơ sở y tế là Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.

Đây là con số đáng báo động bởi trước đó, Hà Nội đã trải qua 5 ngày không có thêm ca nhiễm trong cộng đồng. Số người dương tính với nCoV của thành phố thời gian qua cũng đang có xu hướng giảm.

Ngành ngân hàng - Cuộc đua về phát triển từ nội lực, không dành cho hai từ “hưởng lợi“

Trong năm 2020-2021, “hưởng lợi” là một trong những từ được nhắc đến nhiều nhất khi đề cập về nền kinh tế và các ngành nghề tại Việt Nam.

Năm 2020, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có khả năng chống chọi tốt với đại dịch Covid-19, tạo điều kiện cho nhiều ngành hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng như ngành hàng tiêu dùng, thực phẩm, vận tải logistic,…Năm 2021, dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 trên quy mô rộng đã ảnh hưởng nặng đến nền kinh tế. Mức giảm 6,2% của GDP Quý 3/2021 so với quý trước là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay. Đến đầu Quý IV/2021, trong chiến dịch chuyển từ "zero Covid-19" sang "sống chung với Covid-19" khi các tỉnh, thành phố triển khai từng bước nới lỏng giãn cách xã hội, nền kinh tế dần được mở cửa và kỳ vọng sẽ có sự phục hồi. Cùng với đó, các ngành đầu tư công như xây dựng hạ tầng, vật liệu xây dựng, ngành năng lượng, bán lẻ, logistics… được kỳ vọng phục hồi rất nhanh và hưởng lợi lớn. Trong bối cảnh đó, ngành ngân hàng giữ vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, cũng là ngành hiếm hoi không được đề cập trong nhóm ngành hưởng lợi 9 tháng đầu năm 2021, sẽ có triển vọng như thế nào trong những tháng cuối năm 2021 và năm 2022; các ngân hàng đã chuẩn bị sẵn tâm thế và nội lực như thế nào cho cuộc đua sắp tới? Đâu sẽ là động lực cho sự phân hóa trong khối các nhà băng trong giai đoạn tới?

Cuộc đua về tăng vốn để trợ lực cho hoạt động kinh doanh, quản trị rủi ro

Năm 2021 là năm của những “cuộc đua” về tăng vốn giữa các ngân hàng. Đây cũng là nhu cầu thường trực của các ngân hàng khi vốn chủ sở hữu đa phần còn mỏng hoặc cần gia cố thêm để nâng cao khẩu vị an toàn vốn. Từ đầu năm đến nay, 19 ngân hàng liên tục đẩy mạnh tăng vốn bằng nhiều hình thức và đã nhận được sự chấp thuận chính thức về tăng vốn điều lệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), bao gồm các ngân hàng có vốn Nhà nước như Vietcombank, VietinBank, BIDV; các ngân hàng thuộc khối tư nhân gồm SHB, VP Bank, TP Bank, OCB... Tính đến thời điểm 30/06/2021, VietinBank là ngân hàng dẫn đầu về vốn điều lệ với 48.058 tỷ đồng, tiếp sau là BIDV, Vietcombank, Techcombank, Agribank, MB Bank, VP Bank…

Nganh ngan hang - Cuoc dua ve phat trien tu noi luc, khong danh cho hai tu “huong loi“
Nguồn: Tổng hợp từ Điều lệ hoạt động của các ngân hàng tại thời điểm 30/9/2021 

Trong khi đó, chậm nhất đến ngày 1/1/2023, các ngân hàng phải thực hiện tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo chuẩn Basel II được quy định tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN. Tính đến nay đã có 16/35 ngân hàng đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư 41. Không chỉ để đáp ứng yêu cầu về an toàn vốn, việc tăng vốn cũng góp phần tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng, gia tăng nguồn vốn trung dài hạn để mở rộng hoạt động kinh doanh khi mà tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn được siết chặt lại theo lộ trình tại Thông tư 08/2020/TT-NHNN ngày 14/8/2020 của Ngân hàng nhà nước . Theo đó, cuộc đua tăng vốn của các ngân hàng sẽ chưa dừng lại và còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong năm 2022 để các ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính, cải thiện chất lượng tài sản về chất, tăng khả năng sinh lời gắn liền với quản trị rủi ro .

Cuộc đua về dẫn đầu chuyển đổi số để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu thu nhập

Nhìn vào cơ cấu nguồn thu của các ngân hàng, có thể nhận thấy rõ xu hướng chuyển dịch danh mục tín dụng sang các lĩnh vực có tỷ suất sinh lời cao và ít rủi ro như phân khúc bán lẻ. Quan trọng hơn, việc đa dạng hoá các nguồn thu bên cạnh nguồn thu lãi truyền thống từ tín dụng như trước đây của các ngân hàng cũng tập trung sang tăng thu nhập ngoài lãi, thể hiện qua tỷ lệ thu nhập lãi thuần/tổng thu nhập hoạt động (NII/TOI) của các ngân hàng như Vietcombank, VietinBank, Techcombank, VP Bank… có xu hướng giảm dần. Các nguồn thu từ các hoạt động ngoài lãi (non-NII) của các ngân hàng trong nhiều quý trở lại đây như kinh doanh bảo hiểm, phát triển các hoạt động thanh toán, quản lý tài sản, mua bán chứng khoán, ngoại hối… được chú trọng đẩy mạnh hơn và liên tục tăng trường so với các giai đoạn trước.

Nganh ngan hang - Cuoc dua ve phat trien tu noi luc, khong danh cho hai tu “huong loi“-Hinh-2
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC quý I, II/2021 và 2020 của các ngân hàng.

Trong các ngân hàng TMCP có vốn Nhà nước, VietinBank là ngân hàng có mức độ chuyển dịch tỷ lệ NII/TOI khá rõ khi tỷ lệ này giảm từ mức 86,9% trong năm 2020 xuống mức 79,7% trong 6 tháng đầu năm 2021. Thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ của VietinBank liên tục cải thiện qua các quý trong năm 2021 nhờ việc triển khai các biện pháp thúc đẩy bán sản phẩm có thế mạnh như TTTM, chuyển tiền, dịch vụ thẻ...và kiểm soát tốt các khoản chi dịch vụ. Đối với nhóm ngân hàng TMCP tư nhân, sự chuyển dịch diễn ra mạnh ở ACB, Liên Việt Post Bank, SHB…khi các ngân hàng này liên tục tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi, đặc biệt là thu nhập từ hoạt động dịch vụ.

Ở góc độ thói quen giao dịch, có thể nhận thấy làn sóng COVID-19 đã thay đổi toàn diện thói quen sử dụng sản phẩm dịch vụ online của người dùng; đặt ra bài toán cho rất nhiều ngân hàng phải chạy nước rút xây dựng hệ sinh thái số và cạnh tranh về những tính năng ưu việt, tiện lợi cho khách hàng. Theo báo cáo của NHNN, giá trị giao dịch trên kênh Internet và mobile banking của các ngân hàng trong Quý II/2021 đạt 14.834 nghìn tỷ, tăng 21,3 lần so với cùng kỳ, riêng kênh mobile banking tăng 9,1 lần.

Nganh ngan hang - Cuoc dua ve phat trien tu noi luc, khong danh cho hai tu “huong loi“-Hinh-3
Nguồn: NHNN 

Để tạo dấu ấn về sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số đòi hỏi tầm nhìn dài hạn và sự đầu tư chuẩn bị cho công nghệ, hạ tầng từ rất sớm với tốc độ chuyển đổi nhanh chóng. Điều này cũng khởi nguồn cho cuộc đua xu hướng thứ 2 là đầu tư công nghệ và chuyển đổi số trong khối ngân hàng – một cuộc đua marathon cả về tốc độ và quy mô.

Theo số liệu của NHNN, dự kiến trong vòng 3-5 năm tới, các ngân hàng số sẽ có mức tăng trưởng doanh thu tối thiểu là 10%, và có 58,1% tổ chức tín dụng đặt kỳ vọng thu hút hơn 60% khách hàng sử dụng kênh giao dịch số, kỳ vọng tỷ lệ tăng trưởng khách hàng đạt trên 50%. Điều này cho thấy công cuộc chuyển đổi số trong ngành ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ diễn ra khá mạnh mẽ. Mặc dù chưa đến 1/3 ngân hàng trong nước có chiến lược chuyển đổi số rõ nét, nhưng một nhóm các “ngân hàng tiên phong” trong lĩnh vực đã và đang nổi lên dẫn đầu xu thế chuyển đổi số để nâng cao trải nghiệm của khách hàng như Vietcombank, VietinBank, Techcombank, VP Bank, MB Bank, TP Bank,…Bên cạnh cuộc đua về xây dựng và định vị thương hiệu các sản phẩm ứng dụng ngân hàng số tiêu biểu là VCB Digibank, VPBank NEO, VietinBank iPay, My VIB…đang hiện hữu trên thị trường, trong ngành ngân hàng đang có một cuộc đua ngầm khác là nâng cao năng lực core, công nghệ để chuẩn bị trước cho sự đe dọa từ các công ty fintech, và dịch vụ mobile money trong thời gian tới. Đại diện của Techcombank đã chia sẻ nhà băng đã lựa chọn Amazon Web Services (AWS), một công ty thuộc tập đoàn toàn cầu Amazon.com, làm đối tác cung cấp dịch vụ điện toán đám mây, nhằm nâng cao trải nghiệm của khách hàng. Trước đó, VietinBank cũng triển khai các giải pháp khai thác Big data, AI, học máy bao gồm ứng dụng big data, trí tuệ nhân tạo (AI), học máy vào phân tích dữ liệu khách hàng.

Với mục tiêu chuyển đổi số để chuyển đổi trải nghiệm, đưa khách hàng là trọng tâm để phát triển giải pháp tài chính toàn diện và nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động, thử nghiệm với những công nghệ mang tính đột phá, giúp tiết kiệm tài nguyên, chi phí và tăng cường hiệu quả khai thác, trong những năm qua, VietinBank vẫn tiếp tục nổi lên là ngân hàng tích cực triển khai liên tục việc xây dựng kênh phân phối hiện đại, tiện dụng, đồng bộ, hướng đến khách hàng; kết nối đối tác, xây dựng hệ sinh thái lấy khách hàng là trọng tâm; tinh gọn quy trình nghiệp vụ, tăng năng suất lao động. Ngân hàng này đã nghiên cứu và đang triển khai công nghệ mới như công nghệ đám mây nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng, tăng tốc độ phát triển sản phẩm, nâng cao bảo mật và tối ưu hóa chi phí.

“Hưởng lợi” sẽ chỉ là cụm từ cho những kỳ vọng và tầm nhìn ngắn hạn; lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ số hiện đại và năng lực tài chính mạnh sẽ luôn là yếu tố mang lại sự phát triển nhanh, bền vững cho doanh nghiệp – điều luôn hấp dẫn các nhà đầu tư. Câu chuyện về chuyển đổi số còn dài nhưng những ngân hàng có khát vọng chuyển đổi số mạnh mẽ kết hợp với tận dụng thế mạnh về vốn chắc chắn sẽ có lợi thế để phát triển, bứt phá và dẫn đầu trong thời gian tới.

Tin mới