Lý giải chuyện cách con sông, khác âm ngữ

(Kiến Thức) - Ở nhiều địa phương trong cả nước, đôi khi ranh giới chỉ cách nhau đúng một con kênh, ngọn núi nhưng giọng nói đã có sự khác biệt. 


“Ngôn ngữ như cơ thể”
Trong số rất nhiều câu hỏi thú vị liên quan đến sự khác biệt về giọng nói vùng miền, có một câu hỏi gây sự chú ý đặc biệt đối với các nhà khoa học và nhiều người dân Việt Nam, đó là tại sao nhiều địa phương chỉ cách nhau một con kênh, ngọn núi... mà giọng nói đã khác nhau đến lạ thường? Điều gì đã xảy ra với các phương ngữ vậy?
Theo kiến giải của PGS.TS Phạm Văn Hảo, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam thì để trả lời câu hỏi này phải dựa trên 2 nguyên nhân cơ bản. Đó là nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Về nguyên nhân bên trong, đó là ngôn ngữ luôn luôn vận động phát triển như một cơ thể sống, nó có đời sống riêng và không phụ thuộc vào con người cụ thể nào. 
Dưới tác động của các điều kiện địa lý đã tạo cho ngôn ngữ phát triển không giống nhau. Điều này người ta có thể thấy thông qua quan sát các địa phương khác nhau thì có phương ngữ khác nhau, như vùng Nghệ An, Thanh Hóa chỉ cách nhau một con sông, một quả núi mà giọng nói đã khác nhau. Nếu nhìn rộng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam thì thấy hiện nay có tới 6.000 tiếng nói khác nhau, nhưng cộng đồng 100% nói thống nhất một tiếng nói chỉ dừng lại ở phạm vi làng, bản hoặc trong các công xã khép kín phương Đông. 
Trong hơn 25 năm nghiên cứu ngữ âm học, PGS.TS Phạm Văn Hảo đã chỉ ra những hiện tượng đặc biệt của tiếng địa phương. Đó là hiện tượng các đường đồng ngữ chạy theo ranh giới giữa các tỉnh thành, chẳng hạn như Thanh Hóa – Ninh Bình... Đặc điểm tiếng nói của cư dân ở những đường đồng ngữ này có nhiều điểm tương đồng. Ví dụ như người dân Ninh Bình có chất giọng gần giống người Thanh Hóa và ngược lại. Hiện tượng này cũng được phát hiện ở nhiều nơi như Nghệ An – Thanh Hóa, Thái Bình – Nam Định... 
Khu vực Nghệ An – Thanh Hóa cũng có hiện tượng đồng ngữ xuất hiện ở phía Tây, vùng dân tộc Thổ sinh sống giữa Nghệ An, Thanh Hóa. Sau khi nghiên cứu kỹ những vùng này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những thanh điệu được cho là tương đối giống nhau trong tiếng nói giữa hai vùng, nhưng vẫn có một số khác biệt mang đặc trưng của tiếng nói Nghệ An, Thanh Hóa. Những đường đồng ngữ này bị ảnh hưởng bởi vị trí địa lý và điều kiện tự  nhiên của mỗi vùng. Đây chính là nguyên nhân bên ngoài để giải thích tại sao người dân chỉ sinh sống cách nhau một con sông, ngọn núi mà giọng nói đã có sự khác biệt.
Ở nguyên nhân bên ngoài của hiện tượng này theo ông Hảo thì nó còn bị chi phối bởi các đơn vị hành chính khép kín mà Các Mác gọi đó là Công xã phương Đông khép kín. Từ trước tới nay, chỉ duy nhất cộng đồng này nói thống nhất một tiếng với nhau. Đây là cộng đồng đóng vai trò lưu giữ tiếng nói vững chắc nhất. 
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Chửi cha không bằng pha tiếng
Trong số những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt tiếng nói giữa các địa phương như đã kể trên, PGS.TS Phạm Văn Hảo còn đưa ra một hiện tượng khá thú vị, đó là quan niệm “chửi cha không bằng pha tiếng”: “Tôi là người ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Nếu về quê thì tôi sẽ nói tiếng ở quê với chất giọng mà người nghe thấy nằng nặng, nếu không nói tiếng quê thì hàng xóm, các cụ lại châm biếm, mỉa mai là mất gốc, đi ra phố thị có mấy ngày mà quên cả giọng nói tổ tông. Nhưng khi ra Hà Nội tôi lại nói tiếng Hà Nội chuẩn là để thuận lợi trong giao tiếp và công việc”.
Hiện tượng này cũng diễn ra ở nhiều nơi khác, mà điển hình là vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhiều cư dân vùng này khi đi học, đi làm ở Hà Nội, TPHCM... đã sử dụng cùng lúc hai tiếng nói, đó là tiếng Hà Nội và Nghệ An. Người Nghệ An mặc dù nói tiếng Hà Nội trong các quan hệ công việc, làm ăn với cư dân Bắc bộ, nhưng khi gặp người đồng hương thì họ lại “bắt sóng” rất nhanh và quay sang nói chuyện với nhau bằng tiếng Nghệ An. 
Theo PGS.TS Đoàn Văn Phúc, nghiên cứu viên cao cấp, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam thì việc khác biệt tiếng nói vùng miền đôi khi còn do hiện tượng kỵ húy. Chẳng hạn như cư dân từ Thừa Thiên - Huế trở vào trước đây không có người tên là Phúc vì trùng với tên một vị vua triều Nguyễn. Để không phạm húy, người dân vùng này đã thay tên Phúc bằng Phước. Hay một hiện tượng khác đó là ở làng Đồng Tỉnh, xã Thái Dương, huyện Thái Thụy, Thái Bình người dân không gọi quang gánh là “quang gánh” mà phải gọi là “quăng gánh” để tránh phạm húy với một vị tổ làng tên Quang...
“Ngôn ngữ có quy luật biến đổi riêng để thích nghi với hoàn cảnh trong từng giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ lại có tính võ đoán, có nghĩa là tính không thể lý giải. Ví dụ như từ “ghế” chúng ta không biết tại sao gọi cái ghế là “ghế” nhưng nếu nói từ “ghế tựa”, “ghế bành”... thì có thể giải thích được dựa vào đặc điểm riêng của từng loại. Hoặc chữ “người” thì không giải thích được tại sao lại có tên gọi là người, nhưng nếu nói là người da đen, người da trắng... thì có thể giải thích được. Như vậy, bản thân chữ “ghế” chữ “người” thuộc về tính võ đoán của ngôn ngữ”. 
PGS.TS Đoàn Văn Phúc 

Ngôn ngữ kì dị ở một ngôi làng xứ Nghệ

“Ga ni ga mô/ ga mô ri eng/ ga ni ga chi/ O ni đi mô/ o mô đi ra, o mô đi vô/ đi vô ga mô ri...”. Mới thoạt nghe một loạt câu nói trên dễ nhầm tưởng là người... Nhật đang nói chuyện, nhưng thật ra đó là một nhóm dân Vĩnh Hoàng đang đi trên tàu chợ!

Thật tiếc là chỉ có thể ghi lại chữ chứ không thể đưa cái phần ngữ âm lên báo. Bởi với chất giọng đặc sắc ấy, cộng với phương ngữ của vùng đất này, chỉ cần nghe giọng Vĩnh Hoàng cất lên đã thấy vui, chưa nói đến một khả năng ứng tác chuyện trạng dân gian như một di sản văn hóa riêng có.

Thật ra cái câu nghe như tiếng Nhật nói trên chỉ đơn giản là các cách nói của câu hỏi “Ga (xe lửa) này là ga nào đây... Cô này định đi đâu... Cô nào đi chuyến tàu vào... cô nào theo chuyến tàu ra... Tàu sẽ vào ga nào đây...”.

Tiếng Pháp cộng tiếng Nhật (!?)

Dân Quảng Trị thấy ai nói khoác (tất nhiên pha chút hài hước) thể nào cũng bảo: “Tay này chắc quê gốc Vĩnh Hoàng”. Cái vùng đất phía đông huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian lưu tâm nghiên cứu.

Ngôi làng này là chiếc nôi của những câu chuyện trạng nổi tiếng từng được ví như làng Gabrovo trứ danh của nước Bulgaria. Tính nết khôi hài cùng với thổ ngữ là lạ đã sinh ra biết bao câu chuyện trạng cười “bể bụng”.

Ví như câu nói “ga mô ri eng?” hay “ga mô ri o?”, là cư dân khu 4 (vùng Thanh Nghệ Tĩnh - Bình Trị Thiên) ai cũng hiểu được nội dung, nhưng đưa nó thành chuyện trạng thì chỉ có thể là...Vĩnh Hoàng!

Một người kể: “Bựa nớ đi tàu bay ra nác ngoài, chộ cái dà ga đại chang bang, bơ hỏi một đực: “Ga mô ri eng?”. Đực ta nọ ư hự răng, trặc sang cái mụ tê hỏi “Ga mô ri o?” cụng nọ ư hự, sau cả mấy đực chụm trốc hội ý rồi hỏi lại dà choa là câu trước nghe dư tiếng Pháp, câu sau nghe dư tiếng Nhật mà nỏ phải tiếng Nhật hay tiếng Pháp, cả tàu bay nỏ ai biết miềng nói cấy chi!”. Hóa ra đơn giản chỉ đi máy bay ra nước ngoài, thấy cái nhà ga quá to, mới hỏi: Ga này là ga nào hả anh? Nhưng người ta không trả lời được, quay sang hỏi một chị: Ga này là ga nào chị? chị ấy cũng không trả lời được, sau đó tất cả bọn họ chụm đầu hội ý để đoán xem hai câu hỏi là ngôn ngữ nước nào, nghe như tiếng Pháp và tiếng Nhật nhưng không phải vậy!

Về Vĩnh Hoàng, có thể nghe hàng trăm câu chuyện liên quan đến phương ngữ của dân làng như chuyện “Kí lộ chao cặng mô ri o?” (cái chỗ rửa chân ở đâu vậy hả cô?). Chuyện hỏi cung tù binh Mỹ bằng giọng Vĩnh Hoàng hồi chiến tranh, chuyện “Bọ mạ mi mô”...Trong số những người làng có năng khiếu kể chuyện trạng phải kể tới hai ông Trần Đức Trí và Trần Hữu Chư.

“Rứa chú mi đã nghe chuyện Lợ một buội cay”(Lỡ một buổi cày) chưa?”, ông Trần Đức Trí - một nghệ nhân chuyện trạng Vĩnh Hoàng ở làng Huỳnh Công Tây thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị), mở đầu câu chuyện với một cái giọng rất... trạng. “Bựa nớ, dà có mấy méng rọong, tui ưng đi cày sớm nên dặn vợ chủn bị cơm nác.Trời đạ sáng chi mô,vợ tui đạ mần sặn một bù nác chè đặc với một mo xôi xáo vợi khoai, bay mùi ra chi thơm.Tui nghe đạ khoái, liền lùa bò một mạch tận rú. Chộ trời chưa rạng, tui cho bò ăn một chặp. (dịch: Bữa đó, nhà có mấy mảnh ruộng, tui thích đi cày sớm nên dặn vợ chuẩn bị cơm nước. Trời đã sáng gì đâu, vợ tôi đã làm sẵn một bầu nước chè đặc với mo cơm nếp xáo với khoai, bay mùi ra thơm lắm. Tôi nghe đã thích liền lùa bò một mạch tận rừng. Thấy trời chưa sáng, tôi cho bò ăn một lúc).

Cứ thế, ông vừa kể bằng giọng Vĩnh Hoàng, còn chúng tôi ghi lại qua người phiên dịch. Câu chuyện tiếp tục rằng sau đó, ông chọn một con trong đàn bò rồi buộc vào cày và bắt đầu cày ruộng. Cày một hồi đến khi mặt trời lên mới biết cái con đang kéo cày không phải là bò mà là... cọp. “Sặn rạ trung tay, tui phắt một lát thiệt năng, niệt cày đứt mần đôi. Lạo cọp khiếp, chạy một mạch vô rú khôông dòm lại. Rứa là tui lợ một buội cày!” (sẵn cái rựa trong tay, tôi chặt một nhát thật mạnh, cày đứt đôi. Lão cọp khiếp, chạy một mạch vô rừng, không nhìn lại. Vậy là tôi lỡ mất một buổi đi cày).

Giọng ông nặng trịch, người Quảng Trị gọi là nặng cạy cạy. Thanh hỏi, thanh ngã đều biến thành thanh nặng, thanh ngang và huyền khi mờ khi tỏ. Lại thêm phương ngữ Vĩnh Hoàng, từ cổ và từ đệm thoắt ẩn thoắt hiện trong câu chuyện. Cùng với cái giọng nhấn nhá lên xuống, lúc nhanh lúc chậm của một cao thủ kể chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Dù đã nghe đến cả ngàn lần vậy mà dân làng vẫn thích ngồi nghe ông kể và cười ngả nghiêng như mới nghe lần đầu. Tôi hỏi một đồng nghiệp ở cách đó mấy cây số: “Ông hiểu gì không?”. “Vừa nghe vừa đoán nhưng cũng như vịt nghe sấm”.
Bức tranh Cãi cọp mà cày của ông Trần Hữu Chư.
Bức tranh Cãi cọp mà cày của ông Trần Hữu Chư.

Gìn giữ di sản cho làng...

Chuyện trạng Vĩnh Hoàng từng được cố tiến sĩ văn học Võ Xuân Trang dày công sưu tầm,biên soạn và in thành sách. Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) đã từng tổ chức hội thảo về chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Những câu chuyện trạng đậm đặc tính cách Quảng Trị “cười quên khổ” và thứ thổ ngữ “nặng hơn cả Quảng Trị”, dẫu chỉ nghe một lần cũng thật khó quên.

Đã có một giai đoạn Phòng Văn hóa thông tin huyện Vĩnh Linh tổ chức hội thi kể chuyện trạng nhằm phát huy sự sáng tạo của người dân với những câu chuyện đặc thù Vĩnh Hoàng, nhiều nghệ nhân dân gian đã nổi lên từ những hội thi như thế, tuy nhiên chỉ được một thời gian phong trào lại lắng xuống. Những câu chuyện của người làng Vĩnh Hoàng vốn được sinh ra để mang lại tiếng cười lạc quan cho nhau bên ấm chè xanh, bên nồi khoai lang bở chứ không phải để hội hè thi thố, và dường như khi cuộc sống càng sung túc, bớt phần cơ cực, những câu chuyện trạng đầy ắp lạc quan càng vắng dần. Duy có ông Trần Hữu Chư sợ rằng những câu chuyện một thời mất đi, ông đã giữ lại bằng cách vẽ những câu chuyện ấy thành những bức tranh, mỗi bức tranh là một câu chuyện ấm áp hồn hậu và lạc quan của đời dân, đời làng qua bao dâu bể thời gian...

Vùng đất này xưa có thành ngữ “ăn cơm bữa diếp” - nghĩa là hai ngày mới được ăn một bữa cơm, hỏi ăn cơm chưa nghe trả lời ăn từ “bữa diếp” nghĩa là ăn cơm từ... ngày kia. Cuộc sống cơ cực ngày xưa như vậy đã khiến người dân lạc quan như một tính cách được hình thành từ chính hoàn cảnh sống. Những năm chiến tranh, đây cũng là vùng đạn bom khốc liệt, truyền thống “trạng” càng được nối tiếp, thành một thứ năng lượng tinh thần động viên dân làng vượt lên thử thách mà sống, mà chiến đấu.Và đấy là thứ hương hỏa tinh thần vô giá, đã lặn vào máu thịt đời dân nơi đây, và họ mang theo, dù đến chân trời góc bể nào đi nữa!

“Chửi cha không bằng pha tiếng”: Bí mật và sự thật

(Kiến Thức) - Từ lâu, giọng nói khác lạ của người Sơn Tây, Thạch Thất, Ba Vì... đã thu hút sự chú ý của đông đảo các nhà ngôn ngữ học, lịch sử...

“Xe đạp – xe độp, cái cửa – cái cữa, Ba Vì con bò vàng – Ba Vi con bo vang…” đó là một trong số ít những cặp từ chuẩn và địa phương mà vì nó đã có không ít tranh cãi để lý giải, để bảo vệ. Và vì nó, người xưa có câu “chửi cha không bằng pha tiếng” – cái ngôn ngữ vùng miền ấy nó đã trở thành thứ bản sắc bất khả xâm phạm.

Điều gì đã tạo nên ngôn ngữ địa phương vùng miền ấy? Đã nhiều năm nay, các nhà khoa học dày công nghiên cứu, lý giải sự khác biệt giữa ngôn ngữ các địa phương, tộc người, hoặc giữa các tộc người với nhau. Mặc dù kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở giả thiết, thế nhưng điều này đã hé lộ nhiều bí mật thú vị liên quan đến nguồn gốc tộc người và sự giao thoa văn hóa, ngôn ngữ ở Việt Nam.
Lạ lùng giọng nói Sơn Tây

Ngôi trường cổ có kiến trúc “dị” nhất VN nằm ở đâu?

(Kiến Thức) - Có thể nói công trình này là một "báu vật kiến trúc" không chỉ của riêng Đà Lạt mà là của toàn Việt Nam nói chung.

Tọa lạc ở số 29 Yersin, thành phố Đà Lạt, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là công trình kiến trúc duy nhất của Việt Nam được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20.
Tọa lạc ở số 29 Yersin, thành phố Đà Lạt, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là công trình kiến trúc duy nhất của Việt Nam được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20.

Tin mới