Ly kỳ tìm mộ vua Hồ Quý Ly nơi đất khách

600 năm sau khi Hồ Quý Ly mất, con cháu tại Việt Nam vẫn luôn mong mỏi tìm được mộ chí của ông nơi đất khách quê người…

Ly kỳ tìm mộ vua Hồ Quý Ly nơi đất khách
Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Đến năm 1406, quân Minh do Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy lấy danh nghĩa “phò Trần diệt Hồ” kéo sang xâm lược. Đến năm 1407 quân Minh đã diệt nhà Hồ, bắt Hồ Quý Ly và các con Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương cùng nhiều quần thần và thợ giỏi, sư sãi… đưa về phương Bắc. Sau này Lê Lợi khởi nghĩa thành công, lập nên nhà Hậu Lê, số phận của những người bị quân Minh bắt vẫn rất mờ mịt, hầu như không có thông tin gì. Con cháu nhà Hồ còn sống sót ở Việt Nam những năm sau này đều mong mỏi biết về số phận và mồ mả tổ tiên nhưng bặt vô âm tín. Cho đến đầu những năm 2000, họ biết được có một nhà khảo cổ người Việt đã nhiều năm nghiên cứu và có ý định đi tìm ngôi mộ của Hồ Quý Ly, đó là ông Đỗ Đình Truật.
Một người khao khát tìm mộ vua Hồ
Ông Đỗ Đình Truật sinh năm 1931, mất năm 2013, là người đã có hơn 50 năm làm việc trong ngành khảo cổ. Ông đã được ghi nhận là người khai quật mộ cổ nhiều nhất Việt Nam với hơn 100 ngôi mộ. Từ nhỏ ông đã rất hâm mộ Hồ Quý Ly cùng những cải cách của nhà Hồ. Năm 1955, ông được cử sang Trung Quốc làm chủ nhiệm một số lớp ở khu học xá Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tại đây, ông may mắn gặp được học giả Trần Văn Giáp, từng du học Pháp và làm việc ở Viện Viễn Đông Bác cổ. Ông Giáp được nhiều học giả Trung Quốc khâm phục, thậm chí gọi ông là “Quách Mạt Nhược thứ hai” (nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với những nghiên cứu về văn tự cổ).
Thật bất ngờ khi ông Giáp cũng rất quan tâm đến Hồ Quý Ly và cung cấp cho ông Truật nhiều thông tin về các tài liệu quý giá liên quan đến nhà Hồ ở các thư viện Trung Quốc. Trong quá trình ở Quảng Tây tìm mộ Hồ Quý Ly thì ông Truật lại tình cờ phát hiện ra mộ của chí sĩ Nguyễn Thiện Thuật, người anh hùng của khởi nghĩa Bãi Sậy. Do điều kiện công việc lúc bấy giờ, ông Truật không có cơ hội để tiếp tục đi tìm mộ, sau này khi cách mạng văn hóa nổ ra, ông Truật phải về nước. Từ đó ông chỉ đi tìm dấu tích về nhà Hồ ở trong nước, nhất là sau khi xảy ra chiến tranh biên giới, ông càng không hy vọng có cơ hội sang Trung Quốc tìm mộ vua Hồ.
Hơn 70 tuổi, sức khỏe giảm sút, ông Truật rất vui mừng khi con cháu họ Hồ đã tài trợ chi phí để ông sang Trung Quốc tìm mộ. Xác định đây là chuyến đi lớn cuối đời, ông nghiên cứu tư liệu, chuẩn bị cho hành trình. Năm 2004, tôi may mắn được gặp ông Đỗ Đình Truật sau khi ông đi Trung Quốc về, được ông kể cho nghe nhiều chuyện thú vị. Gần đây lại gặp được người học trò cùng đi với ông nên có thể bổ sung khá đầy đủ về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly nơi xứ người.
Ly ky tim mo vua Ho Quy Ly noi dat khach
Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật (trái) và ông Nguyễn Thiện Đức trong chuyến đi tìm mộ Hồ Quý Ly. Ảnh do gia đình cung cấp 
Tung tích của Hồ Quý Ly trên đất Minh
Các cuốn sử của Việt Nam chỉ ghi nhận việc cha con Hồ Quý Ly bị giải về Trung Quốc là hết. Phần còn lại được ghi chép khá rõ ở các cuốn Minh sử, Minh cảo sử, Minh thực lục, Minh thông giám, Quốc triều hiến chính… của nhà Minh. Sau khi bị giải đến kinh đô, ba cha con Hồ Quý Ly chỉ bị xử rất nhẹ; Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương được phong quan làm việc cho nhà Minh. Riêng Hồ Quý Ly, một số tài liệu cho rằng bị đày làm lính thú ở Quảng Tây, rồi bị giết bí mật. Tuy nhiên, ông Truật không tin vào thuyết này vì khi quân Minh đưa quân qua xâm lược nước ta đã vu cho Hồ Quý Ly hơn 20 tội, toàn tội đại nghịch như tiếm ngôi, giết vua, chém sứ, lấn đất thiên triều… nên nếu muốn giết thì có thể chém ngay giữa điện Phụng Thiên luôn để ra uy, không cần phải dùng cách tiểu nhân. Bản thân Hồ Quý Ly khi bị bắt đã hơn 70 tuổi, già yếu, khó có khả năng trốn thoát về đất Việt và cũng không còn lực lượng, nhất là bị dân chúng căm ghét, cho là cướp ngôi nhà Trần.
Ngoài ra, do Hồ Nguyên Trừng được trọng dụng để chế vũ khí nên nhà Minh cũng muốn giữ mạng Hồ Quý Ly để các con yên tâm phụng sự, có thể đó là lý do tại sao nhiều pho sử nhà Minh ghi lại rằng sau khi bị hài tội thì Hồ Quý Ly chỉ bị giam vào ngục chờ phán quyết, mà sau đó cũng không thấy có phán quyết gì với ông, tức là ông đã bị giam hoặc giam lỏng đến khi chết.
Một tài liệu khác thời Minh ghi chép lại trò chuyện với con cháu Hồ Quý Ly cho biết Hồ Quý Ly chết khi hơn 80 tuổi, chôn ở kinh đô. Sau đó con cháu cải táng, chôn ở núi Chung Sơn cách đó hơn chục dặm. Ông Truật tin là tài liệu này đúng hơn cả. Và ông cho rằng nơi chôn cất Hồ Quý Ly ở núi Chung Sơn là núi Lão Tử hiện tại, thuộc TP Nam Kinh, tỉnh Giang Tô.
Sử sách đều ghi ba cha con Hồ Quý Ly bị dẫn giải về Kim Lăng. Kim Lăng (Nam Kinh) chính là kinh đô của nhà Minh trước khi dời về Bắc Kinh. Núi Lão Tử thuộc thôn Kim Lăng, cách Nam Kinh gần 20 km vốn là nơi chôn người chết bao đời, trên núi có vô số ngôi mộ. Ngay cả hai vị vua đầu tiên của nhà Minh cũng được đặt lăng mộ ở Lão Tử Sơn, sau này dời đô mới mang về Bắc Kinh, đặt trong Thập tam lăng như hiện nay. Vấn đề còn lại là làm sao tìm được mộ Hồ Quý Ly giữa muôn vàn nấm mộ ở nơi này.
Những chuyện ngẫu nhiên trên Lão Tử Sơn
Xuống sân bay Bắc Kinh, nhóm ông Truật được một cô gái tên Thu Vân ra đón. Cô là người gốc Việt, qua người quen, biết ông Truật đi tìm mộ Hồ Quý Ly nên tình nguyện làm người dẫn đường. Một chuyện khá ngẫu nhiên là khi trên chuyến tàu đi Nam Kinh, tình cờ một thanh niên ngồi gần đó nghe được câu chuyện của nhóm đã tới làm quen. Anh giới thiệu là công nhân mỏ, họ Hồ, sống ở Giang Tô, biết rõ địa thế vùng này. Anh đã vẽ bản đồ chỉ dẫn cách đi đến thôn Kim Lăng trên Lão Tử Sơn.
Khi đến Kim Lăng, đoàn đã đến đồn cảnh sát địa phương để trình báo sự việc và hỏi thăm, được cảnh sát cho biết trên Lão Tử Sơn có rất đông người họ Hồ, có cả một khu mộ nghe nói của dòng họ người Việt ở đó từ rất lâu rồi. Họ còn nhiệt tình cử một sĩ quan cảnh sát lấy ô tô dẫn đoàn đến đó. Những sự kiện ngẫu nhiên nối tiếp khiến ông Truật tin rằng ông đã gần đến đích.
Ông Nguyễn Thiện Đức, năm nay 68 tuổi, vốn là một sĩ quan quân đội nhưng rất đam mê khảo cổ nên đã theo làm học trò ông Truật hơn 16 năm. Ông kể lại: “LãoTử Sơn là vùng rừng núi rất mênh mông rộng lớn, ít người, mộ chí rất nhiều. Chúng tôi đi tìm từ sáng tới trưa chưa thấy dấu tích mộ dòng họ Hồ, cả đoàn ai cũng hết sức mệt mỏi. Khi đang đi, bỗng nhiên tôi bị một cành gai quấn vào gấu quần kéo lại. Tôi cúi xuống gỡ cây gai và nhân tiện cột lại dây giày thì thấy có một con đường mòn nhỏ bên cạnh. Linh tính mách tôi thử tách đoàn đi theo con đường mòn nhỏ một đoạn xa thì phát hiện ra một ngôi mộ ghi tên Hồ Văn Hải, chết đã rất lâu rồi. Tôi gọi cả đoàn lại, ai cũng mừng rỡ. Cụ Truật gieo thử một quẻ Kinh dịch, hỏi xem có phải nhà vua không thì được biết chỉ là mộ một người hậu thế. Tuy nhiên, đây là cơ sở để chúng tôi vững tâm, bắt đầu đi tìm các gia đình có người họ Hồ gần đó để dò hỏi thêm”...
Một cụ già cho biết bà cũng nghe kể lại dòng họ Hồ của bà có gốc Việt Nam rất lâu trước đây. Xưa kia trên đỉnh Lão Tử Sơn còn có ngôi mộ của tổ dòng họ Hồ ở đây. Trên đó còn có cả nhà giam cũ từ xưa. Trong khi mọi người đang mừng rỡ thì bà cụ khiến không khí chùng lại khi nói rằng theo các bô lão trong thôn, hồi Thế chiến thứ II, quân Nhật kéo đến chiếm Nam Kinh, chúng đã chọn đỉnh Lão Tử Sơn làm nơi đặt trận địa pháo. Nhà giam cùng nhiều ngôi mộ cổ trên đó, trong đó có lăng mộ tổ họ Hồ đều đã bị san ủi.
Đứng trên đỉnh núi nay chỉ còn là bãi đất hoang cây cỏ mọc đầy, ông Truật thắp hương gieo quẻ Kinh dịch, hỏi di hài nhà vua còn ở đây không thì quẻ trả lời còn nhưng không tìm được nữa. Ông Truật bốc lấy hai nắm đất trên đỉnh, gói lại vào tấm vải mang về. Khi tới Bắc Kinh mở ra, thật kỳ lạ khi nắm đất nhìn giống như hình đầu người. Hai nắm đất đó sau này đã được đưa về đặt trên bàn thờ của dòng họ Hồ ở Việt Nam.

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía

(Kiến Thức) - Lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì vũ khí “thần cơ sang pháo” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại, khiến quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía
Vào thời nhà Hồ, thần cơ sang pháo và cổ lâu thuyền được coi là hai phát minh lớn về vũ khí do Hồ Nguyên Trừng - con trai cả của vua Hồ Quý Ly và là anh của vua Hồ Hán Thương sáng chế.
Kiểu đại bác đầu tiên của nước ta
Thuốc súng xuất hiện ở nước ta khá sớm, được sử dụng trong các lễ hội và cả trong quân sự. Từ cuối thế kỷ 14, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt. 
Thời ấy, đầu thế kỷ 15, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đo, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét.
Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ" - kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng thần công ở những thế kỷ sau này.
Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao. Cấu tạo súng thần công bao gồm: thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy, rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.
Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn viết: con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”. Loại súng này có nhiều cỡ: lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai... Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai... Tuy nhiên, Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “thần cơ pháo” - thực chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.
Quân Minh khiếp sợ trước hỏa lực thần cơ sang pháo

Sử sách chép rằng, quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Song, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ vẫn thất bại và không được dân ủng hộ. Vào thời điểm đó, giặc Minh đã bắt được những cỗ thần cơ sang pháo, rất ngạc nhiên và khâm phục vì thần cơ sang pháo có nhiều ưu thế hơn hẳn các hoả pháo của quân Minh, nên lập tức vận chuyển về nước họ.

Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên.
Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên. 

Minh sử chép: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ... Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến (Trương Tú Dân).

Lại nói nhà Hồ, vào năm 1407, 17.000 người Việt gồm gia quyến quan tướng họ Hồ và quân lính Đại Việt bị đưa về Nam Kinh, Trung Quốc. Vì tính mạng của cha (Hồ Quý Ly), Hồ Nguyên Trừng buộc phải phục vụ cho nhà Minh trong việc trông coi xưởng đúc súng. Vua Minh muốn Hồ Nguyên Trừng vận dụng phương pháp chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội mình.

Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ghi rằng: "Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".
Như vậy, dù Trung Quốc là nơi đầu tiên phát minh ra thuốc súng nhưng nơi phát minh ra đại bác lại là Việt Nam. Đến hôm nay, người Việt rất tự hào về súng thần công. Nhiều khẩu thần công sang pháo được bảo quản, trưng bày trong các bảo tàng lớn tại Hà Nội, Huế...
Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Ông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam với tư cách một nhà kỹ thuật quân sự, công trình sư lỗi lạc, ông tổ của nghề đúc súng thần công của người Việt. 
Ngoài súng thần cơ, Hồ Nguyên Trưng còn là nhà sáng chế của thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng) và là tổng công trình sư của nhiều công trình kiến trúc, thủy lợi hoành tráng thời Hồ.

Dòng họ được Vua phong 4 chữ vàng “Mỹ tục khả phong”

(Kiến Thức) - Chỉ ở một xã vùng quê và chỉ một dòng họ trong bao dòng họ khác định cư trong xã đã có những đóng góp lớn lao như vậy. 

Dòng họ được Vua phong 4 chữ vàng “Mỹ tục khả phong”
Xuân Viên là một xã cổ nay thuộc huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nằm ở phía Bắc dưới chân núi Hồng Lĩnh. Nơi đây, cũng là một xã có truyền thống văn hóa lâu đời, là một trong những xã có trường dạy chữ quốc ngữ sớm nhất huyện. Xã có làng Văn Miếu, năm Đinh Mùi (1847) xã đã lập bản hương ước văn hóa, riêng về mục khoa cử có quy định: Ai đậu tú tài, cử nhân, tiến sĩ được dân xã đón rước và mời khao từng cấp là bao nhiêu...
Hiếu học và hiếu dạy học

Thành nhà Hồ tiếp tục được ca ngợi trên báo Tây

“Thành nhà Hồ được xây dựng trong 3 tháng, ghép các viên đá với nhau mà không dùng vữa là một thành tích ấn tượng của kỹ thuật thế kỷ 15”.

Thành nhà Hồ tiếp tục được ca ngợi trên báo Tây
Nằm ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 150 km về phía nam, thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 2011. 
Theo CNN, danh hiệu được trao cho thành nhà Hồ là điều kỳ lạ vì một số lý do. Thứ nhất, nhà Hồ chỉ tồn tại vỏn vẹn trong 7 năm (1400-1407), khoảng thời gian ngắn ngủi tựa một giọt nước trong đại dương lịch sử Việt Nam. Thứ hai, Thành nhà Hồ hoàn toàn trống rỗng, không hề có lâu đài miếu mạo, chỉ có 4 bức tường bao quanh một khu đất. Theo UNESCO, nơi đây đại diện cho phong cách kiến trúc kiểu mới của một kinh thành Đông Nam Á

Tin mới