Nàng cung nữ cả đời không tắm, sống được hoàng cung kính nể

Đến nay, Tô Mạt Nhi là nhân vật mang đầy màu sắc truyền kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Bà tuy có xuất thân nghèo khó song lại được cả hoàng cung kính nể, khi chết còn được hoàng đế để tang.

Tô Ma Lạt tên thật là Tô Mạt Nhi hay Tô Mạt Nhĩ, theo tiếng Mông Cổ có nghĩa là "cái túi làm bằng lông thú". Bà là người tộc Mông Cổ, sinh ra tại một gia đình du mục nghèo ở thảo nguyên Khoa Nhĩ Thấm vào những năm 1612. Đến cuối thời vua Thuận Trị, đầu thời Khang Hy, bà mới đổi sang tên Mãn Thanh là Tô Ma Lạt với ý nghĩa là "túi tiền vừa".
Tô Ma Lạt sinh ra đã rất xinh đẹp và thông minh. Bà được quản gia phủ bối lặc Bát Nhĩ Tề Cát Đặc Bố lựa chọn làm thị nữ theo hầu Nhị cách cách Mộc Bố Thái (Hiếu Trang Thái hậu sau này).
Với sự thông minh vốn có, chỉ vài tháng bà đã thông thạo cả tiếng Mãn và tiếng Hán. Bà còn có tài viết chữ Mãn đẹp như bản mẫu. Nhờ vậy mà Hiếu Trang Thái hậu đã tin tưởng giao phó việc dạy chữ của cháu nội Khang Hy cho Tô Ma Lạt.
Tô Ma Lạt là cô gái được trời phú rất nhiều khả năng thiên bẩm. Bà còn được biết đến bởi tài may vá vô cùng khéo léo. Thậm chí các bộ lễ phục sau này của hoàng thất nhà Thanh đều làm dựa trên hình mẫu và thiết kế gốc của Tô Ma Lạt.
Nang cung nu ca doi khong tam, song duoc hoang cung kinh ne
Tô Ma Lạt sinh ra đã rất xinh đẹp và thông minh. Ảnh minh hoạ. 
Dù về vai vế là chủ - tớ song Hiếu Trang Thái hậu luôn coi Tô Ma Lạt như người chị em ruột. Mối tâm giao giữa họ kéo dài suốt 60 năm liền. Trong cả quãng thời gian dài đó, hai người họ chưa từng rời nhau nửa bước. Tình cảm của họ đã vượt xa thứ tình cảm chủ tớ thông thường. Ngày vua Hoàng Thái Cực băng hà, thương Hiếu Trang Thái hậu phải ở goá khi chỉ mới 31 tuổi, Tô Ma Lạt đã quyết cả đời không lấy chồng, ở lại cung hầu hạ chủ nhân.
Không chỉ có vị trí đặc biệt trong lòng Hiếu Trang Thái hậu, bà còn được cả hoàng cung kính nể với những cách xưng hô rất đặc biệt. Hiếu Trang Thái hậu gọi Tô Ma Lạt là cách cách, danh xưng vốn chỉ dành cho những cô gái có địa vị cao trong hoàng thất.
Khang Hy hoàng đế thậm chí còn gọi bà là "ngạch nương" (có nghĩa là mẹ theo tiếng Mãn). Các hoàng tử công chúa của Khang Hy thì gọi bà là bà nội.
Dẫu được cả hoàng cung kính nể nhưng chưa bao giờ bà tỏ ý kiêu ngạo hay tham quyền. Hiếu Trang Thái hậu từng ngỏ ý muốn thăng cấp cho Tô Ma Lạt song bà chỉ có mong muốn làm cung nữ hầu hạ Thái hậu.
Sự kiện có thể nói là lớn nhất trong đời Tô Ma Lạt là khi Hiếu Trang Thái Hoàng thái hậu qua đời năm Khang Hy thứ 26 (1687). Sự ra đi của người chủ bà đã gắn bó 60 năm khiến Tô Ma Lạt đau buồn đến đổ bệnh.
Khang Hy ngày ấy đã không theo những phép tắc thường trong cung, giao thập nhị a ca Dận Đào - con trai của Định phi cho Tô Ma Lạt nuôi nấng. Chính đứa trẻ này đã giúp Tô Ma Lạt lấy lại được sự sống, dành trọn mọi sức lực để chăm sóc hoàng tử mới lên 3 này.
Tô Ma Lạt có những điều khiến ai nấy không khỏi tò mò, thắc mắc. Hưởng thọ tới 90 tuổi, song cả cuộc đời bà chưa bao giờ dùng đến một loại thuốc, dù là khi bệnh nặng. Bà còn không bao giờ tắm rửa, cả năm chỉ có 1 lần người ta thấy bà dùng một ít nước để vệ sinh thân thể rồi lại uống hết chỗ nước bẩn ấy.
Đứa trẻ 3 tuổi ngày nào dưới sự chăm sóc, dạy bảo của Tô Ma Lạt đã trở nên lớn khôn, là một trong những hoàng tử được Hoàng đế Khang Hy trọng dụng nhất. Thay vì lao vào cuộc chiến quyền lực tranh giành ngôi báu như những hoàng tử khác, Dận Đào luôn thể hiện sự trung lập. Dận Đào cũng là hoàng tử sống thọ nhất trong 35 hoàng tử của Khang Hy khi thọ đến 79 tuổi.
Khang Hy năm thứ 44 (1705), Tô Ma Lạt đổ bệnh nặng rồi qua đời. Khang Hy khi đó đang đi tuần, biết tin liền viết thư dặn các hoàng tử khoan nhập liệm để ông được gặp mặt Tô Ma Lạt lần cuối. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, vua đã để tang một người cung nữ. Khang Hy đã tự mình lo liệu cho đám tang của Tô Ma Lạt. Khắp trong cung, ai cũng đau buồn khi chứng kiến sự ra đi của bà.
Linh cữu Tô Ma Lạt cũng được đặc biệt đặt ở gần linh cữu Hiếu Trang Thái Hoàng thái hậu. Sau khi Ung Chính lên ngôi, ngoài việc xây lăng mộ cho Hiếu Trang Thái Hoàng thái hậu, ông còn cho xây mộ của Tô Ma Lạt ngay gần đó mất gần 5 tháng mới xong. Cho đến nay, lăng mộ của bà vẫn là nơi thu hút rất nhiều khách đến ghé thăm khi tới Trung Quốc.

Cung nữ 96 tuổi kể chuyện cuộc sống nơi lầu son gác tía

Người cung nữ của triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam - ở tuổi gần 100 vẫn nhớ tường tận cuộc sống nơi lầu son gác tía.

 Lầm lũi phận tôi tớ

Chiều Huế mưa rả rích. Trong phủ Kiên Thái Vương (179 Phan Đình Phùng, TP.Huế) u tịch, một cụ bà tóc bạc lặng lẽ cầm những nén hương thắp lên án thờ các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Khải Định và Bảo Đại. Cơn gió se lạnh từ bên ngoài rít qua cánh cửa phủ sờn cũ khiến cụ bà run rẩy. Cụ lẩm bẩm khấn vái, đôi mắt mờ đục hướng lên di ảnh các vị vua. Người dân sống xung quanh phủ Kiên Thái Vương gọi cụ là mệ Dinh, tên đầy đủ của cụ là Lê Thị Dinh.

Mệ Dinh là một trong số ít cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn hiện còn sống. Đã bước sang tuổi 96 nhưng mệ vẫn nhớ như in những ngày làm người hầu nơi cung cấm. Năm lên 8 tuổi, đang học lớp 5 trường Đồng Khánh, mệ được Thánh Cung Hoàng hậu - vợ vua Đồng Khánh, gọi vào cung. Đến năm 15 tuổi, khi Thánh Cung qua đời, mệ chuyển sang hầu Đức Từ Cung- vợ vua Khải Định. Mỗi tháng mệ được trả 6 đồng tiền lương (có thể mua được 600 lon gạo).

Cung nu 96 tuoi ke chuyen cuoc song noi lau son gac tia

Cụ bà Lê Thị Dinh - một trong số ít cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn còn sống. T.H Ảnh lớn: Cung nữ theo hầu Hoàng Thái hậu trong cung nhà Nguyễn. ảnh: Tư Liệu

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đức Từ Cung chuyển về cung An Định, sau đó về sống tại 147 Phan Đình Phùng (Huế), mệ Dinh tiếp tục theo hầu. Là cung nữ nhưng đồng thời cũng là con cháu hoàng tộc, nên sau khi Đức Từ Cung qua đời, mệ chuyển đến phủ Kiên Thái Vương để lo hương khói cho các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Khải Định, từ năm 1997 thì thờ thêm vua Bảo Đại.

Mệ kể, khi hay tin mình được vào cung, mệ vừa mừng vừa lo. Mừng vì làm cung nữ là một vinh dự lớn, bởi trong mắt dân thường, cung nữ là người có địa vị cao, được phép ra vào nơi lầu son gác tía. Lo vì mệ từng nghe rất nhiều câu chuyện buồn về thân phận cung nữ phải gánh chịu nhiều bi kịch. “Cung nữ thực chất chỉ là nô lệ hạng sang, sướng thì có sướng nhưng họa sát thân có thể giáng xuống đầu bất cứ lúc nào”- mệ đúc kết về phận cung nữ.

Đôi mắt mờ đục của mệ ứa nước khi những ký ức buồn ùa về. Trong chuỗi ngày làm người hầu ở nơi quyền quý, mệ đã chứng kiến nhiều cung nữ phải chịu những trận đòn tàn bạo. “Hình phạt đối với cung nữ hết sức hà khắc, chỉ cần một sai sót nhỏ là phải ăn đòn. Có lần một cung nữ vì sợ ma mà la thét lên khiến hoàng hậu giật mình tỉnh giấc. Việc đơn giản như thế nhưng cung nữ này đã bị lôi ra sau cung đánh đập thừa sống thiếu chết”- mệ vừa kể vừa đưa bàn tay gầy guộc quệt nước mắt.

Theo lời mệ Dinh, là thân phận tôi tớ nên các cung nữ chỉ biết lầm lũi làm việc theo sự sai khiến của chủ nhân, không dám cãi nửa lời. Những cung nữ thường vào cung từ năm 8-10 tuổi, rời cung tuổi đã ngoài 30, khi đã quá lứa lỡ thì. Một quy tắc bất di bất dịch đối với mọi cung nữ là phải thủ tiết cho đến ngày rời cung...

Thâm cung bí sử

Mỗi khi đến bữa ăn, mệ phụ trách kiểm tra các món ăn. Đến thời Đức Từ Cung, mệ còn được sai viết thư thăm hỏi vua Bảo Đại mỗi lần vua đi du hí”. 

Cụ bà Lê Thị Dinh

Cuộc sống nhung lụa của những ông hoàng bà chúa, sau hơn 70 năm mệ Dinh vẫn nhớ tỉ mẩn. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, những bậc “bề trên” được người hầu dùng nước ngâm các loài hoa để rửa chân, rửa mặt. Sáng dậy, các ngài tắm bằng nước ngâm các loại hoa lài, hồng, hoặc nước nấu bằng lá các loại cây như sả, bưởi, chanh…

Vào các dịp lễ tết, triều đình tổ chức rất nhiều lễ cúng linh đình, đồ cúng có đủ sơn hào hải vị, được chuẩn bị trước đó hàng tháng trời. Ấn tượng nhất là lễ hội pháo hoa đêm giao thừa “bắn lên những long, phụng đủ sắc màu và đẹp chi lạ” phục vụ cho hoàng gia kéo dài cả giờ đồng hồ nơi hoàng cung.

Tôi hỏi mệ, trong số những ông hoàng bà chúa ngày đó, mệ nhớ người nào nhất. Mệ chậm rãi, có hai người mệ nhớ nhất là Đức Từ Cung và con trai bà là vua Bảo Đại. Trong ký ức của mệ, Đức Từ Cung là một người biết lo lắng cho vận mệnh của hoàng tộc và rất thương dân. Ngài rất thích nghe những bài vè, bài vịnh về những người phụ nữ khí phách của nước Nam như Huyện Thanh Quan, Triệu Ấu, công chúa Huyền Trân… Mỗi lần nghe những bài đó, ngài bảo đàn bà con gái trong nước phải biết noi gương những người khí tiết ấy. Khi biết một vùng quê nào đó có dân đói khổ, ngài liền sai người hỗ trợ lương thực. Khi nghe thông tin về hoạt động mị dân của thực dân Pháp, ngài rất buồn và lo lắng...

“Đức Từ Cung đức hạnh, thương dân thương nước như vậy, còn đức Bảo Đại hư hỏng lắm. Thấy con suốt ngày chỉ biết mê mẩn tửu sắc trong khi người Pháp ngang ngược lộng hành, ngài ăn không ngon ngủ không yên”- mệ Dinh mở đầu câu chuyện về vua Bảo Đại. Mệ kể, Bảo Đại là người không có nhiều cung tần, thứ phi ở trong cung nhưng lại hay “lăng nhăng” bên ngoài.

Mệ bảo mình còn biết rất nhiều chuyện “thâm cung bí sử” khác, nhưng không muốn kể. “Mình là con cháu hoàng tộc, kể những chuyện không hay ho chi về tiền nhân là có lỗi. Chuyện chi qua rồi phải để cho nó qua đi”- mệ cười buồn.

4 lý do khiến Nhà Minh đánh mất sự thống trị tại Trung Hoa

Từng đánh đuổi Nguyên Mông thành công, nhưng Minh triều lại để mất giang sơn vào tay ngoại tộc chỉ vì 4 nguyên nhân nội tại này.

Nhà Minh (1368-1644) là triều đại cuối cùng do người Hán kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Kể từ khi Chu Nguyên Chương lập quốc, Đại Minh trải qua 16 đời vua, thống trị Trung Hoa trong gần 3 thế kỷ.

Tin mới