Người Việt Nam đầu tiên sang Mỹ là ai?

(Kiến Thức) - Theo các tư liệu mới xác định, người Việt Nam đầu tiên sang Mỹ là ông Trần Trọng Khiêm, với đầy ắp những thăng trầm nơi đất khách và ý chí kiên cường khi về nước khai hoang lập ấp...

Bỏ quê trốn đi biệt tích
Các nguồn sách báo xưa nói tới người Việt Nam đầu tiên đi sang Mỹ là ông Bùi Viện (1841 - 1878). Ông là một nhà ngoại giao, làm quan dưới triều Nguyễn. Bùi Viện quê ở làng Trình Phố, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đến Mỹ năm 1873, được Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ tiếp và hứa sẽ hợp tác nếu có quốc thư. Lần thứ hai, ông Bùi Viện trở lại Mỹ với bức thư của vua Tự Đức, bị Tổng thống Mỹ Ulysses Grant từ chối nên cuộc bang giao không thành. 
Nhưng năm 1998, ông Mai Thanh Hải tìm thấy một số tư liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia 2 TPHCM và một số tài liệu khác được biết trước ông Bùi Viện đó có một người Việt Nam sang Mỹ rồi. Đó là ông Trần Trọng Khiêm (còn có tên khác là Lê Kim), người làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vị, phủ Lâm Thao (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
Ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 trong một gia đình nho học thuộc vùng quê có truyền thống hiếu học và yêu nước. Thuở nhỏ ông Khiêm cùng học với người anh là Trần Mạnh Trí. Cả hai anh em đều học giỏi, hay chữ. Người anh đi thi, phạm húy, suýt bị tội, ông Khiêm ngán ngẩm con đường khoa cử, bỏ đi buôn gỗ, giao thiệp và quen thân nhiều người dọc sông Thao, sông Cái (sông Hồng), từ Yên Bái qua Bạch Hạc, Việt Trì xuống đến phố Hiến (Hưng Yên). 
Năm 20 tuổi ông Khiêm lấy vợ người họ Lê cùng làng. Do điều kiện buôn bán nên ông thường vắng nhà, tên cai tổng trong làng luôn tìm cách quyến rũ vợ ông. Một sớm bà đi chợ, tên cai tổng cho lính bắt cóc đưa về nhà cưỡng hiếp. Bà không chịu, chống cự lại nên bị cai tổng đánh chết và vứt xác mất tích. Khi ông Khiêm về nhà nghe chuyện liền cầm dao giết chết tên cai tổng để trả thù cho vợ. Xong ông bỏ quê quán trốn đi biệt tích.
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Thăng trầm nơi đất khách
Ông xuống phố Hiến rồi theo các tàu buôn của nước ngoài. Ông làm thủy thủ trên tuyến đường biển từ Hương Cảng (Hồng Kông), Hoàng Tân (Yokohama -  Nhật Bản), London (Anh), Amsterdam (Hà Lan)... Trần Trọng Khiêm nói thông thạo tiếng Quảng Đông, tiếng Anh. Khoảng năm 1847 - 1848, Trần Trọng Khiêm tới Mỹ, bỏ tàu lên bờ tìm cách sinh sống lâu dài. 
Khoảng năm 1854 - 1855, Trần Trọng Khiêm rời Mỹ, tìm cách quay về quê hương và như vậy, ông Khiêm đã sống và làm nhiều nghề trên đất Mỹ trong khoảng 7 - 8 năm. Suốt thời gian trốn chạy giữa năm 1843, làm nghề thủy thủ đường biển và trên đất Mỹ, ông Khiêm đều khai tên tuổi theo họ vợ là họ Lê và tên là Kim gần gũi với cách phát âm tên Khiêm - còn giấy tờ ghi theo lối Mỹ là Lee Kim.
Vào những năm đầu khi ông Trần Trọng Khiêm tới Mỹ, đất nước này đang mở chiến tranh 1846 - 1848 với Mehicô ở phía Nam, Mỹ thắng trận, chiếm được một vùng đất bao la của Mehicô. Ông Khiêm cùng nhiều người Hoa kéo lên bờ biển phía Tây nước Mỹ, nơi phần đất mới chiếm được của Mehicô, liên tiếp tai nạn núi lửa và động đất, đầy rẫy thú dữ trên núi, trong rừng, nhưng nguy hiểm hơn cả, vùng này không có nô lệ da đen và cũng rất ít người bản địa da đỏ, thực dân da trắng coi dân da vàng là nguồn nhân công chủ yếu đẩy vào làm các việc nguy hiểm nhất khai phá rừng rậm hoang vu... 
Trần Trọng Khiêm cảm thấy cái chết rình rập ngày đêm, nên cùng một số người Quảng Đông bỏ trốn lên phía Bắc, chen chúc vào đám người đi đào vàng, tìm vận may. Sốt rét và rắn độc là hai kẻ thù đáng sợ nhất của dân đào vàng thời đó. Ông Khiêm trở về California, nhờ trí thông minh của mình, ông tự rèn luyện thành một nhà báo tự do và sau đó trở thành một bình bút thường trực của báo hằng ngày Daily Evening, với đề tài chủ yếu là cuộc sống khủng khiếp của nô lệ và kẻ đi làm thuê ở nước Mỹ. 
(còn nữa)

Những “bông hồng Việt” tài năng trên đất khách

Họ là những nữ sinh gốc Việt hiện đang sinh sống tại nước ngoài và đều rất thành công trên lĩnh vực mình đang theo đuổi.

Nữ sinh gốc Việt "văn võ song toàn"

Vua Hàm Nghi: Luôn giữ gìn bản sắc Việt ở đất khách

- Toàn quyền Đông Dương Paul Bert dự định lập Hàm Nghi làm vua bốn tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình; vua anh Đồng Khánh và ba bà thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi Hàm Nghi trở về, nhưng ông khẳng khái từ chối "Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua ma ở trong vòng cương tỏa của Pháp".
[links()]
Đám cưới Vua Hàm Nghi (ảnh tư liệu).
Đám cưới Vua Hàm Nghi (ảnh tư liệu).

Tháng 9/1888, suất đội Nguyễn Đình Tình đầu thú với thực dân Pháp và dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó, Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc đưa quân Pháp đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm 30/10/1888, vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Tiệp con Tôn Thất Thuyết bị bọn nghịch tặc giết chết. Vua Hàm Nghi chỉ vào mặt Trương Quang Ngọc mắng rằng: "Lãnh Ngọc, người hãy giết ta bằng lưỡi gươm này, chớ đừng bắt ta nộp cho Phú Lãng Sa!".

Chiều ngày 14/11/1888, khi Quang Ngọc đưa vua Hàm Nghi về tới Thuận Bài, quân Pháp đã tổ chức đón vua rất long trọng, nhưng Hàm Nghi khước từ và không nhận mình là Hàm Nghi. Bọn Pháp đã dùng nhiều kế để Hàm Nghi phải tự nhận mình, nhưng nhà vua vẫn giả như không hay biết gì với những người xung quanh. Khi bọn Pháp đưa thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến nhận, thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào thầy. Lúc đó bọn Pháp yên trí đấy chính là vua Hàm Nghi thật.

Khi được tin người Pháp đã bắt được vua Hàm Nghi, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và Bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp không cho đưa về Huế mà đày Hàm Nghi sang xứ Angieri ở Bắc Phi. Trước khi đưa Hàm Nghi đi đày, Rheinart báo với ông là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ rước về cho gặp mặt. Nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối và nói: "Tôi thân đã tù, nước đã mất còn dám nghĩ gì đến cha mẹ anh em nữa". Ngày 13/12/1888, vua Hàm Nghi được đưa xuống tàu, sau một tháng trời lênh đênh trên biển, ngày 13/1/1889 tàu cấp bến Alger - Thủ đô Algieri.

Trải qua 10 năm trên đất Algie, vua Hàm Nghi đã tiếp xúc với người Pháp và người bản xứ bằng tiếng Pháp thông thạo, tuy nhiên ông vẫn luôn nói tiếng Việt và giữ gìn bản sắc văn hóa Việt. Một lần có người ca ngợi nước Pháp giàu đẹp, vua Hàm Nghi đáp "lịch sử nước Pháp rất hấp dẫn tôi, nhưng lịch sử của nước tôi cũng hấp dẫn tôi không kém". Nhiều quan chức cao cấp của Pháp rất tôn trọng tinh thần yêu nước và phong cách sống phương Đông của ông.

Năm 1904, vua Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe, con gái của ông Laloe - chánh án tòa thượng thẩm Alger. Hai ông bà có với nhau 3 người con (2 gái, 1 trai). Ngày 14/1/1944, vua Hàm Nghi qua đời, hưởng thọ 73 tuổi. Năm 1965, gia đình ông chuyển qua sinh sống tại lâu đài de Losse thuộc làng Thonas tỉnh Dondogne (miền Tây nước Pháp) do công chúa, thạc sĩ nông học Như Mai tạo lập từ nhiều thập niên trước và hài cốt của vua Hàm Nghi được đưa về đây.
Dương Tuấn

Tin mới