Nhà khoa bảng đắp thành Đa Bang, tử tiết quyết không hàng giặc

Nhà khoa bảng Hoàng Hối Khanh đã sống một cuộc đời đúng nghĩa "Văn thần chí tận", sẵn sàng chết, quyết không hàng giặc.

Ít nhiều bị đánh giá không công bằng, song nhà khoa bảng Hoàng Hối Khanh đã sống một cuộc đời đúng nghĩa “Văn thần chí tận”, sẵn sàng chết, quyết không hàng giặc.
Dù có tài kinh bang tế thế nhưng trong hoàn cảnh đất nước gặp quá nhiều biến động: Trong dân không theo nhà Hồ, ngoài thì giặc Minh nhòm ngó nên vận xoay chuyển càn khôn mà Hoàng Hối Khanh ra sức đã tan thành mây khói.
Tuy nhiên, hành động tử tiết vì nước đã để lại cho hậu thế không chỉ một tấm gương sáng, mà còn cả những nghĩ suy chuyện thế sự – thế thời.
Trấn thủ biên cương, chiêu dân lập ấp
Hoàng Hối Khanh (1362 – 1407), quê Bái Trại, huyện Yên Định, nay là thôn Bái Trại, xã Định Tăng, Yên Định – Thanh Hoá. Ông đỗ Thái học sinh khoa thi năm Giáp Tý (1384) đời vua Trần Phế Đế.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: “Năm Giáp Tý (1384), mùa Xuân, tháng 2, Thượng hoàng cho thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du (lấy đỗ) bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh… 30 người. Mùa Hạ, tháng 5 cho số Thái học sinh còn lại làm Thư sử ở cung Bảo Hoà”.
Từ đó, Hoàng Hối Khanh làm quan cho nhà Trần trong vòng 16 năm, giữa bối cảnh đất nước đầy rẫy khó khăn. Năm 1385 ông được bổ chức Tri huyện Nha Nghi (Lệ Thuỷ – Quảng Bình ngày nay) trấn giữ phía Nam Đại Việt. Ông chọn Mũi Viết – vùng đất nằm giữa hai con sông Bình Giang và Ninh Giang để đóng huyện sở.
Nơi đây địa thế sông núi hiền hoà, phía trước có thành Ninh Viễn (Nhà Ngo), hướng Tây Nam có ngọn Mã Yên. Từ Mũi Viết nhìn về hướng Tây Bắc là vùng đất màu mỡ hoang vu, có khả năng khai phá lập nghiệp lâu dài. Trong vai trò thống lĩnh phương Nam nên Hoàng Hối Khanh có đặc ân được chọn khoảng 500 mẫu ruộng đất.
Ông ra Hoan Châu và Ái Châu chiêu mộ dân 12 dòng họ vào khai canh lập ấp lấy tên làng Kẻ Tiểu. Tương truyền, từ Kẻ Tiểu ban đầu ông đã tâu lên triều đình cho mở rộng toàn vùng, tổ chức các làng dưới hình thức “động vi binh, tịnh vi dân” để vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Bởi vậy, ông được coi như vị Thành hoàng cả một vùng rộng lớn của huyện Lệ Thủy ngày nay.
Sau thời gian làm Tri huyện Nha Nghi, ông được cử giữ chức An phủ sứ lộ Thăng Hoa (Quảng Nam – Quảng Ngãi). Thời kỳ này nhà Trần suy vi, giặc Minh âm mưu xâm lược nước ta nên năm 1394 Hoàng Hối Khanh được điều ra làm An phủ sứ lộ Tam Đái (Yên Lạc – Vĩnh Phúc). Sau lại điều về giữ chức Phát vận sứ ty để chuẩn bị chống giặc Minh.
Năm 1400, Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần, nhà Minh mượn cớ “phò Trần diệt Hồ” để xâm lược nước ta. Hoàng Hối Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, được thăng chức Đồng tri Khu mật sứ (1401) để đối phó với quân xâm lược. Ông cho lập xưởng đúc rèn vũ khí, chế tạo súng thần công.
Năm 1404, để tăng cường kiểm soát nhân khẩu cho việc gọi lính, ông dâng kế sách lên Hồ Quý Ly lập hộ tịch rồi yêu cầu nhân dân kê khai, ghi tên các nam thiếu niên từ 12 tuổi trở lên, chép vào sổ bộ để thống kê trong toàn quốc.
Nha khoa bang dap thanh Da Bang, tu tiet quyet khong hang giac
Hoàng Hối Khanh đỗ Thái học sinh năm Giáp Tý (1384) đời vua Trần Phế Đế. Ảnh minh họa.
Tự vẫn chứ không hàng giặc
Các cứ liệu lịch sử cho biết, thời này Hoàng Quảng Thành – thổ quan châu Tư Minh tâu với vua Minh Thành Tổ rằng, Lộc Châu nguyên là đất cũ của châu Tư Minh. Minh Thành Tổ sai người sang Đại Ngu đòi trả lại Lộc Châu cho châu Tư Minh nhưng Hồ Quý Ly khước từ. Năm sau vua Minh lại sai sứ thần sang đòi, Hồ Quý Ly không thể từ chối, bèn cho Hoàng Hối Khanh làm Cát đại sứ để giao đất.
Ông đành đem đất 59 thôn ở Cổ Lâu trả cho nhà Minh nhưng khi trở về, Hồ Quý Ly lại quở trách ông trả đất quá nhiều. Sau đó, những thổ quan do nhà Minh đặt ra để giữ đất mới nhượng bị Hồ Quý Ly ngầm sai người đánh thuốc độc cho chết.
Tháng 9 năm 1405, Hồ Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh đốc suất dân phu đắp thành Đa Bang (tại huyện Ba Vì, Hà Nội ngày nay) để chống quân Minh. Tương truyền khi đắp thành Đa Bang, ông làm bài thơ có câu: Mao thiềm mệnh dã cung tiều thoán/Lão mộc thì hồ ách phủ cân (Nhà tranh đành phận nơi đun nấu/Cây cối thường khi bị búa rìu).
Nhân lúc nhà Hồ chưa ổn định, Chiêm Thành quấy rối phía Nam. Hồ Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Tuyên uý sứ trấn thủ vùng Thăng Hoa. Đến Thăng Hoa, ông chọn Đặng Tất, Phạm Thế Căng và Nguyễn Lỗ giúp việc cho mình.
Ngay khi phía Nam đang bị quấy nhiễu, nhà Minh đem quân sang đánh chiếm Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly thua chạy, bị quân Minh đuổi gấp, bèn viết thư cho Hoàng Hối Khanh sai lấy một phần ba số dân di cư trước kia ở Thăng Hoa, gộp với quân lính địa phương giao cho Nguyễn Lỗ, lại phong cho người Chiêm là Chế Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương để vỗ về dân Chiêm tại đây.
Tháng 6 năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt. Chiêm Thành nhân đó mang quân đánh chiếm lại Thăng Hoa, dân mới di cư đến tan rã bỏ chạy, Hoàng Hối Khanh không chống nổi phải rút về Hoá châu. Tình hình càng thêm rối ren, Đặng Tất theo bằng đường thủy về trước, Nguyễn Lỗ đi đường bộ về sau.
Lỗ vốn có hiềm khích với Đặng Tất, Trấn phủ sứ Thuận Hoá là Nguyễn Phong về phe với Lỗ ngăn không cho Đặng Tất vào thành. Tất đánh giết được Phong rồi sau đó cùng Lỗ giao chiến. Lỗ chạy sang Thăng Hoa đầu hàng Chiêm Thành.
Chế Ma Nô Đà Nan bị quân Chiêm giết chết, Chiêm Thành thừa thế tiến lên đánh Hoá châu, trong khi đó quân Minh sau khi bắt cha con họ Hồ cũng tiến vào bình định Hoá châu.
Phạm Thế Căng đón quân Minh ở Nghệ An xin hàng. Tướng Minh là Trương Phụ cử Đỗ Tử Trung đi dụ Hoàng Hối Khanh và Đặng Tất. Đặng Tất phải tạm hàng quân Minh để ngăn quân Chiêm bắc tiến, được Trương Phụ cho giữ chức Đại tri châu Hoá châu như cũ.
Tạm yên phía Bắc, Đặng Tất dồn sức đẩy lui được quân Chiêm. Sau đó Đặng Tất sai người tìm Hoàng Hối Khanh bàn mưu chống quân Minh. Tháng 7 năm 1407, Hoàng Hối Khanh về đến cửa Hội gặp gió to vỡ thuyền, bị thổ binh theo quân Minh bắt được. Không muốn lọt vào tay quân Minh, ông bèn tự sát ở tuổi 46. Trương Phụ đem thủ cấp của ông ra bêu ở chợ.
Nha khoa bang dap thanh Da Bang, tu tiet quyet khong hang giac-Hinh-2
Đền thờ Hoàng Hối Khanh.
Ngẫm lại chuyện xưa
Về cái chết của Hoàng Hối Khanh, các tư liệu có phần khác nhau. Có sách cho rằng Đặng Tất bắt ông để nộp cho người Minh và ông đã tự vẫn. “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, ghi: Tất sai người đưa Hối Khanh về, đến cửa biển Đan Thai thì Hối Khanh tự vẫn. “Việt sử tiêu án” lại chép: Tất nghe tin người Minh đã đến Nghệ An, xin đầu hàng Trương Phụ. Phụ sai người đưa Hối Khanh về, đi đến cửa biển Đan Thai, Hối Khanh tự vẫn.
Sách “Danh nhân Bình Trị Thiên” xuất bản năm 1986 dẫn theo “Việt kiệu thư” của Lý Văn Phượng thời nhà Minh chép việc này sáng tỏ hơn: Trương Phụ chưa đánh tới Hóa châu, sai Đỗ Tử Trung đi chiêu dụ Hoàng Hối Khanh và Đặng Tất. Đặng Tất thuận ý hàng còn Hối Khanh bỏ trốn. Sau khi đánh lui quân Chiêm, Đặng Tất sai người đón Hối Khanh về bàn việc chống Minh. Đến cửa Hội thì gặp gió to, thuyền bị vỡ, Hối Khanh bị thổ dân theo quân Minh bắt.
Như vậy có thể thấy hành động bỏ trốn của Hoàng Hối Khanh chứng tỏ ông không muốn hợp tác với nhà Minh. Hành động đó bị nhà Minh cho là chống đối nên tầm nã ông để giết. Trương Phụ bêu đầu ông để dọa những người Việt trốn tránh không muốn hợp tác với quân Minh.
Cái chết của Hoàng Hối Khanh thể hiện tinh thần bất khuất của một nhà nho chân chính, chịu chết chứ không chịu nhục. Đó cũng là cái chết của lòng yêu nước không chịu khuất phục trước giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, một số hành động của ông lại bị một số sử gia chỉ trích, đặc biệt là việc “bỏ Trần theo Hồ”, nhưng cũng phải xét ở một khí cạnh thời thế – ngả theo nhà Hồ không có nghĩa là kẻ bất trung.
Việc Hoàng Hối Khanh thừa lệnh Hồ Quý Ly đem đất 59 thôn ở Cổ Lâu trả cho nhà Minh nhưng khi trở về lại bị quở trách “trả đất quá nhiều”, và bị một số sử gia đánh giá “dâng đất cho giặc” cũng oan uổng cho ông.
Trong tình thế đất nước ngấp nghé miệng hố chiến tranh, nếu không nhượng bộ chắc chắn chiến tranh sẽ nổ ra ngay lập tức. Việc đem đất 59 thôn trả cho nhàMinh không chỉ là tình cảnh “thế thời phải thế”, mà còn là cơ hội để có thời gian chuẩn bị lực lượng, bố phòng.
Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, đã truy phong Hoàng Hối Khanh làm Phong Dực bảo trung hưng, Linh phù đoan túc tôn thần. Đến đời nhà Nguyễn, khoảng năm 1845 lăng mộ và miếu thờ Hoàng Hối Khanh được xây dựng và từ đó về sau được trùng tu lại nhiều lần.
Lăng mộ ông nằm trên một khu đất gần núi An Mã, trên một khu đất tại thôn Thượng Phong, xã Phong Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình). Vua Thiệu Trị cũng truy phong ông làm “Đặc tấn phụ quốc, Thượng tướng quân, tặng kiệt tiết linh thông Hoàng Quận công, Tước Phong Dực bảo trung hưng, Linh phù đoan túc tôn thần”.
Nha khoa bang dap thanh Da Bang, tu tiet quyet khong hang giac-Hinh-3
Khu lăng mộ Tiến sĩ Hoàng Hối Khanh.
Tưởng nhớ công lao người khai khẩn, dân làng Thượng Phong đã lập đền thờ bên hữu ngạn sông Kiến Giang. Hàng năm cứ đến ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch dân làng tổ chức tế lễ. Năm 1998, quần thể đền thờ và khu lăng mộ Tiến sĩ Hoàng Hối Khanh đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia.

* Tiêu đề bài viết đã được biên tập lại

Dòng họ khoa bảng bậc nhất VN phát nhờ âm phần?

Tên tuổi dòng họ Nguyễn làng Viềng được xếp vào hàng “tứ gia vọng tộc”. Xung quanh sự phát tích của dòng họ này tồn tại nhiều câu chuyện thú vị.

Họ Nguyễn làng Viềng (phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu được biết tới là một trong “tứ gia vọng tộc” đất Kinh Bắc xưa không những bởi số lượng người trong dòng họ đỗ đạt, làm quan to trong triều, mà còn bởi nhiều huyền tích nhuốm màu liêu trai.

Kỳ 1: Sự hiển đạt của một dòng họ

Sự thành đạt của một dòng họ nổi tiếng, bên cạnh những cố gắng học hành của những thành viên dòng tộc bao giờ cũng có rất nhiều câu chuyện thần bí xung quanh. Thực hư những chuyện này đến nay thật khó giải thích, tuy nhiên cũng rất khó có cơ sở để bác bỏ.

Được Tả Ao tiên sinh đặt dương cơ

Người được coi là thủy tổ, khai sinh ra dòng họ Nguyễn khoa bảng làng Viềng là Thám hoa Nguyễn Văn Huy. Tương truyền tổ tiên cụ Nguyễn Văn Huy vốn làm nghề bán nước dưới gốc đa làng Đông Lâu (nay là làng Đồng Thôn), huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Tuy nhiên sau khi cụ thân sinh ra Thám hoa Nguyễn Văn Huy mất thì gia đình có chuyển về sinh sống tại làng Viềng. Sau này cụ Huy có kết thân với một người con gái làng Tiêu Thượng (nay thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh) tên là Nguyễn Thị (trong gia phả gọi là Huy phu nhân) vốn cũng là con của một gia đình gia thế.

Thời bấy giờ ở nước ta có một thầy địa lý rất nổi tiếng là Tả Ao chuyên đi ngao du khắp nơi để tìm những mảnh đất đẹp, rồi xem xét nhân tình mà đặt mộ cho những người có duyên. Nhân một lần đi du ngoạn qua địa phận làng Tiêu Sơn, Tiêu Thượng (đều thuộc thị xã Từ Sơn) thường hay trú tại nhà thân phụ Huy phu nhân.

Hình thế ngôi mộ được cho là thầy địa lý Tàu đã đặt cho, tuy nhiên hình thế này đến nay không còn.
 Hình thế ngôi mộ được cho là thầy địa lý Tàu đã đặt cho, tuy nhiên hình thế này đến nay không còn.

Khi đó Huy phu nhân 14 tuổi và là người thường xuyên lui tới hầu hạ, chăm sóc Tả Ao tiên sinh rất chu đáo, không có điều gì sơ suất. Được một thời gian thì Tả Ao tiên sinh xin cáo về, Huy phu nhân thấy vậy mới ngỏ lời: “Tiên sinh là thầy về xem đất, thầy giúp cho mọi người sao không vì nhà cháu mà đặt cho ngôi đất tốt”. Tiên sinh thấy vậy không trả lời mà cứ thế bỏ đi.

Huy phu nhân thấy vậy cũng không dám hỏi nhiều, nhưng định bụng nếu có cơ hội sẽ xin lại lần nữa. Thế rồi nhân một lần có chuyện qua lại Tiêu Sơn, Tả Ao tiên sinh lại ghé vào nhà Huy phu nhân để nghỉ ngơi. Không từ bỏ hy vọng, Huy phu nhân lại tiếp tục cầu xin nhưng tiên sinh vẫn làm ngơ không trả lời.

Bất chợt một hôm Tả Ao tiên sinh mới nói riêng với Huy phu nhân rằng: “Làng Vĩnh Kiều có một danh sĩ, sau này ắt thành người tài, cháu có muốn kết thân không?”. Huy phu nhân nói: “Phận gái đặt đâu là quyền cha mẹ, cháu đâu dám tự quyền”. Thấy vậy, Tả Ao tiên sinh mới nhận đứng ra làm người mai mối, vừa đến nói với thân sinh Huy phu nhân, vừa đến nói với thân mẫu cụ Thám hoa Nguyễn Văn Huy để hai người nên duyên vợ chồng và hai nhà kết thành thông gia.

Tả Ao tiên sinh nói với cha Huy phu nhân rằng: “Ông có hoang thổ một khu, lại là đất tốt, nên bảo chàng rể sang ở đấy sớm tối được nương nhờ, mà con gái ông cũng tiện đường chăm sóc”. Được ưng thuận, tiên sinh bèn chọn ngày tốt, đặt hướng dựng ngôi dương cơ và cụ Nguyễn Văn Huy cũng chuyển từ làng Viềng sang ngôi dương cơ này để đêm ngày đèn sách. Sau những đêm đèn sách miệt mài, cuối cùng cụ đỗ thám hoa năm 1529 đời Vua Mạc Thái Tổ. Năm đó khoa thi không lấy trạng nguyên nên lấy cụ Huy đỗ đầu với chức danh thám hoa.

Truyền thuyết cho rằng cụ Huy đỗ đạt là nhờ được sống trên căn dương cơ được Tả Ao tiên sinh đặt cho. Tuy nhiên theo cụ Nguyễn Đình Quát (78 tuổi) hậu duệ đời thứ 14 dòng họ Nguyễn làng Vĩnh Kiều thì: “Những truyền thuyết như vậy không thiếu, thậm chí còn được ghi vào trong gia phả của dòng họ chúng tôi. Tuy nhiên tôi cho rằng các cụ đỗ đạt phần nhiều là dựa vào nỗ lực và sự kiên trì không mệt mỏi, tất nhiên còn phải dựa vào đức của tổ tiên nữa”.

Phát đạt nhờ âm phần

Bên cạnh câu chuyện Tả Ao tiên sinh đặt dương cơ thì trong gia phả họ Nguyễn làng Vĩnh Kiều còn chép lại truyền thuyết rất thú vị về những thầy địa lý Tàu đặt mộ giúp cho con cháu dòng họ Nguyễn sau này nối nhau đỗ đạt. Tương truyền rằng, vì người Tàu chịu ơn cụ thân sinh ra cụ Nguyễn Văn Huy nên họ đã nhờ một thầy phong thủy nổi tiếng sang Việt Nam tìm giúp một ngôi mộ tốt để trả ơn.

Cổng mộ Thám hoa Nguyễn Văn Huy tại làng Viềng.
Cổng mộ Thám hoa Nguyễn Văn Huy tại làng Viềng. 

Khi các thầy địa lý Tàu đến thì cụ thân sinh ra cụ Huy đã mất và chỉ còn cụ bà. Hai thầy địa lý Tàu bèn nói với cụ bà rằng: “Chúng tôi tìm được hai ngôi đất. Một ngôi kiểu quần sơn củng phục (các núi chầu lại), có thể làm một đời đế vương, một ngôi kiểu cáo trục hoa khai (phong tước nở hoa), có thể làm được bảy đời phò mã (rể vua) tùy người lựa chọn”. Cụ bà thấy thế liền đáp rằng: “Nhà tôi ở chỗ thôn quê bỉ lậu, dám đâu hy vọng những sự lớn lao ấy. Tôi chỉ mong có được một ngôi đất đời nào trong nhà cũng có văn nho mà thôi”. Hai thầy địa lý Tàu thấy vậy liền trả lời: “Chính như nguyện vọng của người thì há cần phải tìm ở đâu xa. Ngay đầu làng này có một huyệt phát kế thế công khanh xin vì người mà giúp cho vậy”.

Xét ngôi huyệt đó long mạch khởi từ xã Cẩm Chương đi lại (nay không xác định địa điểm này ở đâu), đến đầu làng Vĩnh Kiều thì nhô lên thành hai mô đất. Một mô hơi to và bằng phẳng. Một mô hơi bé và méo lệch. Thầy thứ nhất thì bảo huyệt nằm ở mô thứ nhất, thầy thì bảo huyệt nằm ở mô thứ hai. Hai thầy không ai chịu ai, tranh cãi nhau, sau cùng họ phải họa lại bản đồ chỗ đất ấy rồi sai người đem về trình sư phụ quyết định. Người thầy khi xem xong thì viết thư cho học trò rằng: “Ngôi đất này là kiểu hoàng xà thính cáp (rắn vàng nghe ngóe), khí ở tai, hai mộ đất chính là hai tai vậy. Mô lớn tất điếc, mô bé hơi chéo có khí, huyệt ở mô bé ấy. Cứ bảo người nhà làm theo như vậy”.

Không biết thực hư chuyện này ra sao nhưng khi táng huyệt tại điểm đó, sau 36 năm phát phúc, cụ thủy tổ Nguyễn Văn Huy đã đỗ thám hoa. Cụ làm quan tới chức Thượng thư Bộ Lễ, được vua phong làm Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu. Cụ Huy sinh được ba người con trai thì tất cả đều đỗ đạt. Người con cả là Nguyễn Đạt Thiện đỗ Hoàng giáp năm 1559 dưới thời Mạc Tuyên Tông, làm quan tới chức Lại khoa đô cấp sự trung. Người con thứ hai là Nguyễn Trọng Quýnh đỗ Hoàng giáp năm 1547 dưới thời Mạc Tuyên Tông, làm quan tới chức Thượng thư Bộ Lễ. Người con út là Nguyễn Hiển Tích đỗ tiến sĩ năm 1565 thời Mạc Mục Tông, làm quan tới chức Binh bộ Tả thị Lang, tước Nghi Khê hầu.

Riêng cụ Nguyễn Trọng Quýnh có mười người con trai, 4 người mất sớm còn lại 6 người, trong đó có người con cả là Nguyễn Giáo Phương đỗ thám hoa năm 1586, thời Mạc Mục Tông. Do khoa thi này không lấy trạng nguyên và bảng nhãn nên đã lấy Nguyễn Giáo Phương đỗ đầu. Những người con còn lại đa phần đều đỗ đạt làm quan to trong triều. Trong đó đặc biệt có hai người là cụ Minh Tâm và Đức Trạch lại phát về đường võ nghiệp, một người được phong tước hầu, một người được phong hàm Thái Bảo. Con cháu các cụ này cũng nối nhau kế thừa nghiệp cha ông. Người thì phát đường văn nho, người thì phát đường võ nghiệp.

Tên tuổi dòng họ Nguyễn làng Viềng nức tiếng gần xa và được người dân Kinh Bắc xưa xếp vào hàng “tứ gia vọng tộc” vì có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Người dân thì đồn đại rằng dòng họ này phát là nhờ có dương cơ, người thì lại bảo phát về đường âm trạch. Không biết thực hư ra sao, chỉ biết rằng nếu so về truyền thuyết thì dòng họ này gần như là dòng họ duy nhất được cả hai thầy địa lý nổi tiếng người Tàu và Việt Nam đặt đất cho.

Gia tộc nổi tiếng

Trong vòng hơn 300 năm từ khoảng gần giữa thế kỷ thứ XVI đến cuối thế kỷ XIX, dòng họ Nguyễn làng Viềng đã sản sinh ra 10 tiến sĩ, trong đó có 7 người được phong hầu, một người được tặng phong Thái Bảo (chức quan tượng trưng, thể hiện công trạng to lớn - PV), một người được phong tước Bá cùng 30 cử nhân và 60 tú tài. Thành tích này đã đưa dòng họ Nguyễn làng Viềng lên thành một trong những dòng họ có nhiều người đỗ đạt nhất thời phong kiến ở Việt Nam.


Kỳ 2: Câu chuyện về lòng tốt được báo ơn và việc nối long mạch để dòng họ tiếp tục phát phúc

Chuyện chưa kể về vị trạng nguyên cuối cùng của Việt Nam

(Kiến Thức) - Trong lịch sử khoa bảng của Việt Nam, trạng nguyên Trịnh Huệ là trạng nguyên cuối cùng của nước ta.

Ông không chỉ nổi tiếng là người tài giỏi mà ông còn có công dạy nhiều thế hệ học trò thành đạt trong thi cử.
Từng bị Chúa bắt giam vì nghi làm phản

Tin mới