Những lời tâu của đại thần nhà Nguyễn nổi tiếng nhân ái và cương trực

Cứ theo nội dung các giai thoại về những lời tâu của đại thần Võ Trọng Bình với vua Tự Đức thì tấm lòng của vị đại thần này quả đáng khâm phục.

Những lời tâu của đại thần nhà Nguyễn nổi tiếng nhân ái và cương trực

Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện, Võ Trọng Bình là người làng Phong Phú, tỉnh Quảng Bình. Tên chữ của ông là Sư Án. Ông thi đỗ cử nhân năm Minh Mạng thứ 15 - tức năm 1834 và bắt đầu làm quan kể từ đó. Các quan thời Nguyễn, ít ai được trường thọ như Võ Trọng Bình. Ông sinh năm Gia Long thứ 8 - 1809 và mất năm Thành Thái thứ 10 - 1898 thọ 90 tuổi.

Tuy nhiên, Võ Trọng Bình không phải là người nổi tiếng trường thọ mà vì sự khả kính của ông. Ông làm quan trải qua 9 đời vua của triều Nguyễn và triều nào ông cũng có tiếng là nhân ái và cương trực như vậy. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện tập quyển thứ 3 có đoạn đã chép lại những lời ông tâu với nhà vua rất đáng chú ý sau đây:

Nhung loi tau cua dai than nha Nguyen noi tieng nhan ai va cuong truc

Đại thần Võ Trọng Bình. Ảnh minh hoạ.

Lời thứ nhất, Võ Trọng Bình tâu với vua Tự Đức vào năm Bính Dần - 1866. Bấy giờ, tình hình đất nước đang rất rối ren. Ở phía Nam, thực dân Pháp đã lấy hết ba tỉnh miền Đông và đang ráo riết mở rộng cuộc tấn công để lấy hết ba tỉnh miền Tây còn lại. Ở miền Bắc, lợi dụng khó khăn của ta, bọn phỉ người Trung Quốc thường xuyên tràn sang cướp phá dân chúng vùng biên giới. Trong khi đó, quan quân ở các tỉnh Bắc kỳ phải chống đối rất vất vả. Sức người và sức của phải huy động ngày một nhiều. Trước tình hình đó, Võ Trọng Bình lúc này là quan Hiệp biện Đại học sĩ đã tâu lên nhà vua rằng:

- Thành trì là chỗ hiểm hữu hình, còn lòng người là chỗ hiểm vô hình. Dân đã mệt mỏi từ lâu rồi, không thể chịu thêm lực dịch và phí tổn được nữa.

Vua Tự Đức đã nghe theo lời tâu ấy của ông, nên đã bỏ việc xây đắp thành trì mà lo củng cố lòng người và giảm bớt lực dịch cho dân.

Lần thứ hai, Võ Trọng Bình tâu vua Tự Đức vào năm Canh Thìn - 1880. Lúc này, ở Bắc kỳ không chỉ có bọn phỉ quấy phá mà còn có thực dân Pháp ra tay cướp phá, vơ vét của cải của dân chúng. Tình hình an ninh trật tự trong nước khi đó đã rối ren lại càng thêm rối ren. Mùa Thu năm này, Võ Trọng Bình về kinh và vua Tự Đức triệu ông vào chầu. Cũng sách trên đã chép lời ông tâu với vua Tự Đức như sau:

Khi nhà vua cho triệu ông vào và hỏi việc biên cương phía Bắc, nhân đó ông đã nói rằng: Việc trận mạc ở biên cõi phía Bắc Hà chưa biết đến ngày nào mới xong được. Nay, người bàn thì nhiều nhưng người có khả năng tâm đầu ý hợp với Hoàng Tá Viêm thì quá ít (Hoàng Tá Viêm tức Hoàng Kế Viêm, người quê ở Quảng Bình và là võ quan thời Nguyễn. Ông là người đã có công đánh đuổi quân Cờ Đen và quân Cờ Vàng ở vùng biên giới Việt Bắc. Hoàng Kế Viêm cũng chính là người đã thu phục được Lưu Vĩnh Phúc).

Nghe Võ Trọng Bình tâu vậy, vua Tự Đức đã nói:

- Nếu như trẫm dùng khanh vào chức Hiệp đốc hoặc là Biên vụ, liệu khanh có thể cùng với Hoàng Tá Viêm thương nghị mà làm nên việc lớn được không?

Nghe vậy, Võ Trọng Bình liền tâu:

- Thần vốn tính thô thiển và hay khinh suất, việc quân lại chẳng phải là sở trường, cho nên không dám cáng đáng các chức ấy. Nhưng, riêng việc giao cho thần nhiệm sở ở Sơn Tây rồi nếu có gì thì cùng thương lượng với Hoàng Tá Viêm thì thiết nghĩ là cũng có chỗ nghe nhau được.

Nghe thế, nhà vua lại nói:

- Khanh trị dân như thế nào mà được dân yêu?

Võ Trọng Bình thưa:

- Thần không dung túng cho quan lại dưới quyền, nghiêm bắt bọn trộm cướp và sức cho phủ huyện rằng, hết thảy các việc kiện tụng không được để lâu, thuế của dân hàng năm thì tự mình phải biết châm chước chiếu cố, mệnh lệnh phải rõ ràng.

Lời bàn:

Cứ theo nội dung của giai thoại trên thì hai lời tâu của đại thần Võ Trọng Bình với vua Tự Đức ở vào hai thời điểm khác nhau và khá xa nhau, nhưng tấm lòng của người dâng lời tâu thì trước sau vẫn không có gì thay đổi. Ở lần thứ nhất, Võ Trọng Bình coi lòng dân là chỗ hiểm vô hình, người cầm quân mà không biết, không bám được vào chỗ hiểm này thì không thể thắng đối phương. Cho nên việc lo đắp thành cao, lo đào hào sâu, lo rèn khí giới, lo đúc đại bác lớn nhỏ... mà không lo cho trăm họ bằng việc bồi bổ sức dân, không biết thương dân như con thì điều ấy cũng có nghĩa là tự mình chuốc lấy thất bại vậy. Lần thứ hai, vua Tự Đức hỏi ông về kế sách trị dân và ông đã trả lời thẳng thắn về những gì mình học được trong sách và trong thực tế.

Trong xã hội phong kiến ngày xưa, thì kế sách trị dân hay phép trị dân cũng là một. Song, điều lạ ở đây là một ông vua mà lại đi hỏi cấp dưới của mình về phép trị dân, trị nước thì quả là lạ đời. Chẳng lẽ vua Tự Đức không biết điều này? Câu trả lời là không phải, vì tất cả những điều này đã có trong rất nhiều sách vở và vào thời ấy, ai đã làm quan thì cũng đều phải biết. Nhưng, nếu có sự khác nhau ở đây thì chẳng qua chỉ là ở cái tâm của người làm quan khi vận dụng sách vở mà thôi. Có lẽ đây mới là điều mà người xưa muốn gửi gắm cho hậu thế qua giai thoại này.

Vị vua Việt 300 vợ và cung tần nhưng không có con

Dù có tới 300 bà vợ và cung tần, ông lại là vị vua duy nhất trong lịch sử nước ta không có bất cứ người con nào?

Vị vua Việt 300 vợ và cung tần nhưng không có con
Vi vua Viet 300 vo va cung tan nhung khong co con

Tự Đức là vị vua thứ tư của triều đại nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847-1883. Vì mắc bệnh quai bị từ nhỏ, cơ thể gầy yếu, dù có tới 300 bà vợ, phi tần nhưng lại chẳng có nổi mụn con nào.

Vi vua Viet 300 vo va cung tan nhung khong co con-Hinh-2

Vua Tự Đức (1829-1883) là con của vua Thiệu Trị, hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ 1841-1847.

8 vị vua có số phận hẩm hiu trong lịch sử

Dù làm vua một nước, họ không thể quyết định số phận của mình, phải đón nhận kết cục cay đắng.

8 vị vua có số phận hẩm hiu trong lịch sử

8 vi vua co so phan ham hiu trong lich su

Đinh Phế Đế (Đinh Toàn, 974-1001): Khi vua cha là Đinh Tiên Hoàng và anh trai là Nam Việt vương Đinh Liễn bị giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi, được đưa lên làm vua. Một năm sau, nhà Tống xâm lược nước ta, mẹ ông (thái hậu Dương Vân Nga) đã nhường ngôi vương cho Lê Hoàn, Đinh Toàn trở thành Vệ vương. Năm 1001, khi đi đánh quân nổi loạn ở Thanh Hóa, ông bị trúng tên độc chết khi mới 27 tuổi.

8 vi vua co so phan ham hiu trong lich su-Hinh-2

Lê Trung Tông (983-1005): Sau khi vua Lê Hoàn qua đời năm 1005, các con trai của ông đánh nhau 8 tháng để tranh ngôi báu. Cuối cùng, Lê Trung Tông giành được thắng lợi, lên làm vua nhưng chỉ được 3 ngày thì bị em trai là Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều) đầu độc.

Tiến sĩ nước Việt nào từng xin đi tù thay cha?

Biết cha bị oan, vị tiến sĩ này đã viết thư lên quan xin được đi tù thay. Hành động hiếu thảo đó được ca ngợi trong sử sách. Đó là một trong nhiều nhân vật nổi tiếng sử Việt có hiếu với cha mẹ.

Tiến sĩ nước Việt nào từng xin đi tù thay cha?
Tien si nuoc Viet nao tung xin di tu thay cha?

Theo sách “Lĩnh Nam Chích Quái”, Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Vi Vân. Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại chiếc khố che thân, thay nhau mặc. Lúc già ốm, người cha gọi con lại bảo hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình chịu cảnh trần truồng. Chàng kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

 
Tien si nuoc Viet nao tung xin di tu thay cha?-Hinh-2
 Tự Đức là vị vua nổi tiếng hiếu thảo trong lịch sử. Theo sách "Chín đời chúa, mười ba đời vua triều Nguyễn", suốt 36 năm làm vua, cứ một ngày thượng triều, một ngày ông lại đến cung Diên Thọ vấn an sức khỏe mẹ.

Tin mới