Sự thật bất ngờ về đường hầm bí mật ở Đà Lạt

(Kiến Thức) - Những con đường ở Đà Lạt lâu nay vốn được xem là một bí mật của lịch sử với những điều chưa thể lý giải.

Bí ẩn trong lòng đất
Nhiều người ở Đà Lạt và một số tài liệu được công bố vẫn cho rằng, trước ngày phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính người Pháp (9/3/1945), với âm mưu bắt sống toàn bộ các quan lại người Pháp đang làm việc, sinh sống, nghỉ dưỡng tại Đà Lạt, quân đội Nhật đã bí mật cho người đào một hệ thống đường hầm dầy đặc, kéo dài hàng km, tiến thẳng tới các dinh thự mà quan lại người Pháp đang sinh sống, làm việc trong thành phố.
Cửa đường hầm phía sau Nhà sáng tác Đà Lạt
 Cửa đường hầm phía sau Nhà sáng tác Đà Lạt
Hiện dọc theo đường Trần Hưng Đạo sang đường Hùng Vương - nơi tập trung nhiều dinh thự của người Pháp xưa, vẫn đang tồn tại một hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất. Tại cửa hầm phía sau Nhà sáng tác Đà Lạt ngày nay, đi sâu vào khoảng 100m sẽ tới một ngã 4. Tại đây, một nhánh chạy thẳng ra đường Hùng Vương, hai nhánh chạy song song với đường này, hướng tới Dinh I và các căn biệt thự số 11, 16, 18, 26 nằm trên đường Trần Hưng Đạo, nhánh còn lại thông ra phía cửa hầm.
Tại khu vực cuối đường Yên Thế, đường hầm có diện tích rộng nhất, chiều cao khoảng 5m, rộng chừng 10m. Không ít người cho rằng, rất có thể ở địa điểm này quân đội Nhật đã đặt cơ quan đầu não để chỉ huy việc đảo chính người Pháp tại Đà Lạt vào năm 1945.
Lâu nay, việc xác định được quân đội Nhật cho đào những đường hầm này bắt đầu từ năm nào, trong bao lâu, ai đào, quân đội Nhật hay người dân, giờ họ ở đâu, sau khi đào xong họ có được trở về hay đã bị thủ tiêu để đảm bảo sự tuyệt mật đã trở thành những điều bí ẩn.
Bên trong đường hầm phân thành nhiều nhánh
 Bên trong đường hầm phân thành nhiều nhánh
Tuy nhiên, điều làm mọi người kinh ngạc hơn cả là một khối lượng đất đá khổng lồ từ việc đào những đường hầm được quân đội Nhật vận chuyển đi đâu để đổ bỏ mà trong suốt quá trình đào đường hầm mà người Pháp không thể phát hiện? Tất cả những nghi vấn này đã được chúng tôi làm sáng tỏ sau khi đã có cuộc gặp gỡ, trao đổi với cụ Phạm Văn Ơn (78 tuổi), trú tại phường 10, TP Đà Lạt cùng một số nhân chứng khác.
Giải mã bất ngờ về đường hầm
Những bí ẩn chưa được làm sáng tỏ đã thôi thúc chúng tôi đi tìm câu trả lời. Từ lời giới thiệu của cụ Khoái, ngụ tại đường Yên Thế, TP Đà Lạt chúng tôi tìm đến gia đình cụ Đào Văn Ơn - người đã từ đầu đến cuối chứng kiến quá trình người Nhật đào cho các đường hầm. Tất cả những bí ẩn từ hệ thống đường hầm này từ trước đến nay đã được cụ Ơn lý giải một cách khoa học, đầy sức thuyết phục.
Cụ ơn cho biết, từ năm 1928, cha cụ là Đào Thúc đã đưa cả gia đình tới dựng nhà ở lưng chừng một quả đồi cách Dinh I khoảng 1km, sống bằng nghề nuôi ngựa, làm rau và trồng một số loại cây ăn quả. Do nhà nuôi nhiều ngựa nên đã nhiều lần cụ Đào Thúc được vua Bảo Đại thuê ngựa vào rừng sâu săn bắn dài ngày.
Bên trong đường hầm
Bên trong đường hầm 
Gia đình cụ Thúc được cất nhà gần khu vực quy hoạch cho các quan lại người Pháp sinh sống. Vào thời điểm này, quân Nhật thường đem cơm nóng xuống nhà cụ đổi lấy củ cải về làm thức ăn nên từ nhỏ ông Ơn đã chứng kiến nhiều hoạt động của Nhật – Pháp nơi đây.
Theo ông Ơn, phát xít Nhật tiến hành đảo chính thực dân Pháp trên toàn Đông Dương vào ngày 9/3/1945 nhưng thực chất tại Đà Lạt các quan lại người Pháp đã trở thành tù binh hoặc “bù nhìn” cho quân Nhật từ trước đó rất lâu. Đến cuối năm 1944, hầu hết quân lính và những quan lại người Pháp tại Đà Lạt đều đã bị bắt giam. Ông Ơn cho biết, quân Nhật cho đào đường những hầm này hoàn toàn công khai, không có gì là bí mật như từ trước đến nay nhiều tài liệu đã công bố.
Theo ông Ơn, mục đích của việc đào những đường hầm trên các tuyến đường Yên Thế, Hùng Vương, Trần Hưng Đạo… thông vào các dinh thự tại đây của Nhật không phải là để bắt sống các quan lại người Pháp giống như mọi người vẫn nghĩ, vì thực chất trước khi cho đào những đường hầm này quân Pháp đã bị Nhật bắt giam.
Cụ Đào Văn Ơn-nhân chứng sống của đường hầm
 Cụ Đào Văn Ơn-nhân chứng sống của đường hầm
Do đó, có thể trong thời gian xảy ra thế chiến thứ 2, đoán trước được quân Đồng Minh sẽ phản công trở lại sau khi bị trục phát xít đánh bại ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khi hay tin Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử ném vào nước Nhật và những nơi có quân Nhật chiếm đóng để kết thúc chiến tranh thì một kế hoạch xây dựng đường hầm tại Đà Lạt lập tức được quân Nhật phác thảo. Vào khoảng nửa cuối năm 1944, kế hoạch trên được thực hiện. Có lẽ quân Nhật cũng xác định các đường hầm này sẽ là một hệ thống phòng thủ lâu dài và đắc lực cho mình sau này.
Ai là người đào đường hầm, quân đội Nhật hay người dân Đà Lạt? Ông Ơn nhận định, rất có thể ngay từ đầu quân Nhật đã xác định được tầm quan trong của Đà Lạt nên khi vừa làm chủ được vùng đất này, người Nhật liền huy động cả nghìn tù binh bắt được của quân Đồng Minh từ nhiều nơi đưa lên Đà Lạt bằng đường tàu để lao động khổ sai. Người đào đường hầm này không ai khác chính là những tù binh trên. "Lúc Nhật cho đào những đường hầm này, tôi đã được gần 10 tuổi. Vào thời điểm đó, đứng ở nhà tôi có thể nhìn rất rõ cửa vào đường hầm trên đường Yên Thế ngày nay", ông Ơn kể. 
Việc đào đường hầm được tiến hành rất khẩn trương, người đào dùng cáng khiêng đất đổ xuống phía dưới những chân đồi gần đó. Sau nhiều trận mưa lớn kéo dài, một khối lượng đât đá khổng lồ từ việc đào đường hầm này đã bị nước cuốn trôi về phía huyện Đức Trọng. Hiện tại, ở khu vực thung lũng trước cửa đường hầm sau Nhà sáng tác Đà Lạt nếu bới lớp đất màu mỡ ở trên khoảng 40cm sẽ xuất hiện lớp đất cát màu xám trắng, đó chính là đất từ đường đổ ra. Đường hầm được hoàn tất sau khoảng 7 tháng triển khai. Ông Ơn khẳng định, không có một người dân Đà Lạt nào bị quân Nhật bắt phải đi đào những đường hầm này.
Một lối của đường hầm
 Một lối của đường hầm
Đường hầm hoàn thành chưa được bao lâu thì chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, phe phát xít đại bại, quân Nhật tại Đà Lạt cũng đầu hàng rút về nước. Lúc này, do đường hầm trên không có ai quản lý nên nhiều người dân Đà Lạt sinh sống ở gần đó (trong đó có ông Ơn) đã có dịp được vào thám hiểm. Nhiều đoạn trong đường hầm rất rộng, để phòng tránh sạt lở đất, quân Nhật đã cho kè gỗ thông ở nhiều đoạn. Trong lúc quân Đồng Minh chưa kịp tiến vào Đà Lạt tiếp quản, toàn bộ số gỗ ở đường hầm bị người dân Đà Lạt vào tháo gỡ đem về sử dụng.
Để kiểm chứng những thông tin này, chúng tôi đã tìm gặp một số người lớn tuổi đang sinh sống tại phường 10, TP Đà Lạt như cụ Nguyễn Văn Nhất (82 tuổi), cụ Trương Thị May (80 tuổi), những người từ đầu đến cuối chứng cảnh quân đội Nhật cho đào các đường hầm ở Đà Lạt. Trình bày của hai cụ đều khớp với những gì ông Phạm Văn Ơn cho biết. Theo các cụ, thực tế thì từ cuối năm 1944, tại Đà Lạt quân đội Nhật đã làm chủ hoàn toàn chứ không phải chờ đến sau ngày Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương (9/3/1945). Do đó, việc đào những đường hầm tại Đà Lạt là hoàn toàn công khai, người đào là những tù binh quân đội Nhật đưa đến từ nhiều nơi.

Ngô Đình Nhu và kế hoạch xây địa đạo bất thành

Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 của nhóm sỹ quan nhảy dù Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, dinh Độc Lập đã bị hư hỏng nặng cần phải sửa chữa lại. Anh em nhà họ Ngô chuyển từ dinh Độc Lập về dinh Gia Long. Cũng như dinh Độc Lập, dinh Gia Long có hầm trú ẩn khá kiên cố, tuy nhiên, Ngô Đình Nhu nhận thức rằng trong cuộc đảo chính ngày 11/11/1960, nếu quân nổi loạn đánh thốc vào dinh, nã đại bác hạng nặng hoặc dội bom tấn thì hầm cố thủ kiên cố đến đâu cũng bị san phẳng. Chính vì thế, Nhu quyết định xây dựng địa đạo trong dinh Gia Long để thoát ra ngoài, phòng khi nguy biến.

Dinh Gia Long ở thời điểm của cuộc đảo chính 8/11/1963.
 Dinh Gia Long ở thời điểm của cuộc đảo chính 8/11/1963.

Lên kế hoạch xây địa đạo

Theo hồi ký của tướng lưu vong Đỗ Mậu (khi đó là đại tá giám đốc Nha An ninh quân đội của chế độ Diệm), thì ngay tối hôm sau cuộc đảo chánh bất thành, Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông bỏ chạy sang Campuchia, bắt theo cả trung tướng Thái Quang Hoàng làm con tin, Ngô Đình Nhu đã gọi đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng đặc biệt, vào dinh Gia Long. Ông cố vấn nói qua kế hoạch đào và xây dựng đường hầm bí mật dưới lòng đất dinh Gia Long, Lê Quang Tung thưa là có thể thực hiện được, nhưng về phần thiết kế cần phải có một kiến trúc sư thật giỏi. Cuối cùng, Tung tiến cử kiến trúc sư Võ Đức Diên, người từng lo việc trang trí trong dinh Độc Lập và trông nom xây cất lầu Lâm Ngọc ở Đà Lạt cho Trần Lệ Xuân. Nhu đồng ý và dặn Tung phải tuyệt đối giữ bí mật.

Tối hôm sau, đại tá Tung đưa kiến trúc sư Võ Đức Diên vào gặp Nhu. Được Nhu tin tưởng, Diên mừng khấp khởi. Trước đây kiến trúc sư họ Hoàng nhờ xây lăng cho tổng đốc Ngô Đình Khôi mà được ban chức bộ trưởng, Võ Đức Diên cũng hy vọng sẽ kiếm chác một chút bổng lộc qua những con đường bí mật này.

Sau khi xem xét khá tỉ mỉ, Võ Đức Diên tự tin trình bày sẽ hoàn thành bản thiết kế trong thời gian sớm nhất, nhưng xin ý kiến của Ngô Đình Nhu cho biết chi tiết về số địa đạo, số cửa hầm, chiều dài địa đạo. Nhu tham khảo ý kiến Tung rồi chỉ đạo Diên cho đào ở những nơi trọng yếu như: Con đường thứ nhất, từ dinh Gia Long dẫn ra sông Sài Gòn trở lên Tổng hành dinh hải quân rồi đi thẳng đến sở thú. Đường thứ hai từ dinh Gia Long đến nhà thờ Đức Bà. Đường thứ ba từ dinh chạy thẳng đến nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Bên trong, ngay đầu những đường hầm này, sẽ cho gài lựu đạn, mìn, địa lôi.

Ngô Đình Nhu bảo hãy làm đường hầm dẫn vào Chợ Lớn trước đã, rồi chỉ thị Diên làm bản thiết kế rồi đưa cho ông ta xem.

Hai hôm sau, đại tá Tung vào dinh với bản thiết kế hầm trú ẩn và địa đạo bí mật. Nhu ngắm một hồi lâu, gật gù tỏ vẻ hài lòng và ra lệnh nhanh chóng triển khai.

Trong khi kiến trúc sư Diên và đại tá Tung trò chuyện vui vẻ, Tung đã thành công khi đưa cốc cà phê có độc cho Diên uống thì Nhu bước đến tủ sắt ở góc phòng, lấy ra chiếc phong bì lớn đựng hai trăm ngàn đồng đưa cho Diên gọi là đền ơn khó nhọc. Võ Đức Diên cảm ơn rối rít. Trò chuyện một lúc, Võ Đức Diên xin phép ra về.

Về đến nhà, Diên cất chiếc phong bì vào tủ sắt rồi vui vẻ chơi đùa cùng mấy đứa con, một lúc sau Diên bỗng kêu mệt lên giường nằm. Qua một đêm vật vã vì những cơn sốt, Diên cứ đinh ninh mình bị cảm bèn mời bác sĩ quen đến khám. Thấy bệnh nhân có triệu chứng mệt mỏi, sốt, toát mồ hôi, bác sĩ ngỡ Diên bị cảm nên tiêm một mũi và cho thuốc uống qua loa. Không ngờ đến chiều, sau một hồi vật vã và xuất hạn mồ hôi đầm đìa, Diên quằn quại trút hơi thở sau cùng.

Ngô Đình Nhu.
 Ngô Đình Nhu.

200 người thoát chết trong gang tấc

Việc đào địa đạo phải được tiến hành ngay. Nhu giao cho đại tá Tung tìm người tín cẩn để giao phó công việc. Tung bảo đã tìm được một thiếu tá công binh, cũng là đảng viên đảng Cần lao Nhân, một người có năng lực và rất mực trung thành và Tung xin đứng ra bảo đảm về người này.

Việc đào hầm cần khoảng 200 công nhân luân phiên đào mỗi đêm vì công việc này không thể làm ban ngày được. Số công nhân này được lấy trong đám tù binh khỏe mạnh không có tông tích. Về quy trình làm việc sẽ được tiến hành như thế này: việc đào địa đạo sẽ được bắt đầu từ lúc 12h đêm, đến 4h sáng, 10 toán luân phiên nhau làm việc và mỗi toán có 20 người. Tất cả đều được đưa đến bằng xe bít bùng, mỗi người đều bị bịt mắt, khi vào bên trong mới được mở ra. Đất đào được cho vào túi nylon chuyển ra, chất lên xe và mang đi đổ. Tất cả những ai không phận sự tuyệt đối không được vào.

Công việc đào địa đạo được tiến hành ngay đêm hôm sau. Một thiếu tá công binh chỉ đạo từng toán 20 người lực lưỡng, quần áo ngắn, bị bịt mắt đưa vào phía sau phòng ngủ của cố vấn Nhu. Năm tên cận vệ của đại tá Tung mang súng ngắn canh chừng ở miệng hầm, có phận sự đưa từng toán nhân công từ xe vào phòng rồi tháo băng đen bịt mắt họ ra.

Những người tù binh khỏe mạnh, câm lặng và ngơ ngác biến hút dần xuống con đường hầm, chỉ nghe những tiếng thở mệt nhọc, tiếng cuốc chim nện lên nền đất cứng. Những túi bao tải đựng đầy đất, gạch vụn được chuyền tay đi. Đám cận vệ vũ trang chờ sẵn ở cửa hầm, lặng lẽ đặt lên vai mỗi tù binh một bao tải đất rồi bịt mắt từng người, thứ tự từng người bám vào lưng nhau tiến ra cửa. Đến gần bốn giờ sáng, thiếu tá công binh ra lệnh cho mọi người ngừng tay. Toán tù binh mồ hôi nhễ nhại, lại bị bịt mắt nối đuôi nhau hướng ra chiếc ô tô đã nổ máy chờ sẵn phóng ra khỏi dinh Gia Long khi trời còn mờ tối. Người cận vệ còn lại lo việc quét dọn lau chùi nền gạch từ cửa hầm đã được đậy kín ra tới tầng cấp sân sau, không để lại dấu vết nào của toán người đào địa đạo trong đêm.

Cứ thế mỗi đêm, đúng 12h, cổng sau dinh Gia Long mở ra khi ánh đèn pha chớp tắt ba lần, mấy chiếc xe bít bùng lầm lũi tiến vào sân, viên thiếu tá công binh cùng năm cận vệ với súng ống trong tay dẫn 20 tù binh vào hầm và tiếp tục công việc bí mật. Việc đào địa đạo trong 3 đêm đầu diễn ra thuận lợi nhưng đến đêm thứ tư thì xảy ra sự cố, đất bỗng cứng lại như đá tảng, xà beng nhá lửa bật trở lại, cuốc xẻng bị cong vênh, đám tù binh mồ hôi nhễ nhại, lắc đầu nhìn nhau bất lực. Viên thiếu tá công binh liên tục hò hét đốc thúc nhưng công việc vẫn không tiến triển chút nào.

Đêm hôm sau, việc đào địa đạo vẫn giậm chân tại chỗ, viên thiếu tá công binh đành cho tù binh nghỉ tay và báo việc này cho đại tá Tung.

Sáng hôm sau,Tung vào dinh rất sớm, lúc Nhu đang uống cà phê và hút thuốc lá tẩm á phiện, báo cáo việc đào địa đạo chắc không thực hiện được do móng nền dinh Gia Long được đổ bằng bê tông cốt thép theo ô vuông xuống sâu cả chục thước bởi khu vực này xưa kia là đất sình lầy nên phải đổ như thế để chống sụt lún. Tung cũng báo với Nhu là đã xem lại bản thiết kế cũ và nhận thấy không thể đào địa đạo ăn thông ra ngoài được.

Ngô Đình Nhu rất bực bội nhưng đành phải chấp nhận thất bại và việc đào địa đạo bị dừng lại vô thời hạn. Đây là điều may mắn cho 200 tù binh và cả những người lính canh bởi vì nếu việc đào địa đạo thành công thì có lẽ họ sẽ cùng chung số phận như Võ Đức Diên mà thôi.

Giết người diệt khẩu KTS thiết kế


Số phận Võ Đức Diên đã được đại tá Tung tính toán kỹ và báo cáo kế hoạch với Nhu là làm cho Diên im lặng vĩnh viễn để bảo toàn bí mật. Nhu đồng ý nhưng dặn Tung phải giải quyết thế nào cho gọn, đừng để xảy ra tai tiếng.

Tối hôm sau, Tung bảo Võ Đức Diên vào dinh gặp ông cố vấn. Vị kiến trúc sư tài hoa nhưng bất hạnh không biết tai họa đang chờ sẵn trên đầu, vui vẻ đến gặp Nhu tại dinh Gia Long. Đúng như kịch bản đã soạn sẵn: Cốc cà phê của Diên đã được đại tá Tung kín đáo bỏ thuốc độc từ trước, loại thuốc độc không màu, không mùi sẽ thấm vào tim, chết trong vòng 24 giờ mà bác sỹ có khám bệnh cũng không tìm ra nguyên nhân. Thương thay cho Võ Đức Diên, chết mà không hiểu tại sao mình chết. Và trước lúc chết hãy còn cám ơn Ngô Đình Nhu đã chiếu cố đến mình.

Mỗi sáng, Ngô Đình Nhu thức dậy, chưa kịp rửa mặt, dùng điểm tâm đã xuống địa đạo xem xét, rồi từ cửa hầm đi qua phòng khách vòng ra sân sau nơi mấy chiếc xe bít bùng đậu trong đêm. Nhu đưa mắt nhìn xung quanh khắp lượt, thấy không có dấu vết gì thì tỏ vẻ hài lòng

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU


Đau tim với hai phụ nữ “so găng” tên cướp có súng

(Kiến Thức) - “Không phải tiếc tài sản, mà vì căm ghét bọn tội phạm, nên tôi bất chấp nguy hiểm, quyết bắt bằng được tên cướp có vũ khí”, chị Dung chia sẻ.

Khó có thể ngờ được câu nói này là của một phụ nữ có thân hình “mình hạc sương mai”, bạo gan đối đầu với đối tượng dùng súng cướp tài sản.

Không thuộc bài, thầy giáo đánh học sinh nhập viện

(Kiến Thức) - Khi kiểm tra bài cũ, thầy Dương tay tát vào mặt và cầm thước đánh vào đầu Tâm, khiến em nhập viện vì không thuộc bài.

Tin mới