Thời cổ đại, vì sao quần thần gọi Hoàng đế là “Bệ hạ“?

Trong rất nhiều phim điện ảnh truyền hình về lịch sử, chúng ta thường thấy các đại thần khi gặp Hoàng đế đều xưng là “Bệ hạ”.

Xưng vị của các Hoàng đế thời cổ đại là rất nhiều, ví như Hoàng đế tự xưng mình là “quả nhân”, “trẫm”, các phi tần, đại thần xưng Hoàng đế là “Hoàng thượng”, “Vạn tuế gia”… Từ ý nghĩa bề mặt của chữ có thể thấy, những xưng vị này đều có hàm nghĩa thể hiện sự tôn sùng kính sợ, cầu phúc chúc tụng.
Còn về chữ “Bệ hạ”, trong “Thuyết văn giải tự”, Hứa Thận có nói: “Bệ, thăng cao giai dã. Tùng phụ, bỉ thanh”, ý nói, “Bệ” là bậc cấp đi lên cao. Trong từ điển Hán ngữ hiện đại giải thích về chữ “Bệ” đơn giản là bậc thềm, bậc thang trong cung điện. “Bệ hạ” là phía dưới của bậc thềm.
Thoi co dai, vi sao quan than goi Hoang de la “Be ha“?
 

Thời cổ đại, chữ “Bệ” ra đời sớm nhất quả thật là để chỉ bậc thang từ phía bên dưới đi lên đỉnh đài. “Bệ” có thể được làm bằng đất, có khi bằng gỗ với rất nhiều kiểu dáng từ đơn giản đến uốn lượn cầu kỳ. Vào thời cổ đại cũng chỉ có Vua hoặc Chư hầu mới có tư cách xây dựng đài làm nơi ở của mình. Dần dần, “Bệ” trở thành bậc thềm trong cung điện của quân chủ.

Theo sử liệu ghi chép, Hoàng cung thời cổ được thiết kế tương đối kỹ lưỡng. Bảo toạ của Hoàng đế được đặt ở trên cao, từ dưới nhìn lên bảo tọa có một hệ thống bậc thềm. Những bậc thềm này được gọi là “bệ”. Để bảo vệ sự an toàn của Hoàng đế, các thị vệ được chia ra đứng ở hai bên bậc thềm. Lúc thiết triều, các đại thần đứng ở phía dưới. Khi các đại thần muốn dâng lời bẩm báo điều gì, không dám gọi trực tiếp thiên tử, cho nên gọi “Bệ hạ”, ý tứ là bản thân muốn nói với Hoàng thượng, nhờ thị vệ dưới bậc thềm chuyển lời. Qua đó cũng để biểu thị người có địa vị thấp hướng đến người có địa vị tôn quý (Hoàng thượng) để góp ý.

Điều này có thể tìm thấy trong các tư liệu lịch sử. Danh sĩ Thái Ung triều Đông Hán viết: “Gọi là bệ hạ, tức quần thần khi nói với thiên tử, không dám chỉ trích thiên tử, cho nên nói với người dưới bệ để chuyển lời, ý là người có địa vị thấp hướng đến người có địa vị tôn quý”. Vì thế, “Bệ hạ” trở thành danh từ chỉ Hoàng đế, chỉ việc đại thần đợi ý chỉ dưới bệ, Hoàng đế ngồi ở trên bệ cao chờ người chuyển lời lên.

Có tư liệu lịch sử chỉ ra rằng “Bệ hạ” còn có ý nghĩa là tôn xưng của người hành xử hoàng quyền. Theo ghi chép trong Hán thư, triều Hán đời Nguyên Đế, Hoàng hậu Vương Chính Quân từng được quyền thần nhà Hán – Vương Mãng tôn xưng là “Bệ hạ”.

Ngoài từ “Bệ hạ” thì các từ như “Các hạ”, “Điện hạ”, “Tại hạ”, “Tất hạ”… cũng là có hàm ý chỉ sự tôn kính của người bề dưới đối với người bề trên như vậy.

Từ sau triều đại nhà Tần, từ “Bệ hạ” chuyên dùng để chỉ Hoàng đế đã được sử dụng một cách phổ biến. Như trong “Sử ký. Tần Thủy Hoàng bản kỷ”, Tư Mã Thiên viết: “Từ thời thượng cổ không có ai uy đức bằng bệ hạ”. Từ bệ hạ ở đây là chỉ Hoàng đế Tần Thủy Hoàng.

Ai từng nói "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo"?

Ông là đại công thần của nhà Trần. Một tay ông cáng đáng bao trọng sự, giúp Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự với Mông Cổ.

Ai tung noi
Đây là câu nói của thái sư Trần Thủ Độ với vua Trần Thái Tông trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược năm 1257.  

Ai từng nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo“?

Ông là đại công thần của nhà Trần. Một tay ông cáng đáng bao trọng sự, giúp Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự với Mông Cổ.

Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?
 Đây là câu nói của thái sư Trần Thủ Độ với vua Trần Thái Tông trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược năm 1257.
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-2
 Đánh giá về Trần Thủ Độ, sách "Đại Việt sử ký toàn thư" nhận xét: Trần Thủ Độ tuy làm Tể tướng, mọi việc không việc gì không để ý, vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông hoàng đế có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế, ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua.
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-3
Trần Trọng Kim viết trong "Việt Nam sử lược" rằng: Thủ Độ là đại công thần của nhà Trần. Một tay ông cáng đáng bao trọng sự, giúp Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự với Mông Cổ, khỏi phải làm nô lệ những kẻ hùng cường. 
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-4
Trần Xuân Sính chép trong sách "Thuyết Trần": Trần Thủ Độ tuy không đỗ đạt khoa cử, có mưu lược hơn người, không chỉ là quyền thần nhà Lý mà là quyền thần của ngay nhà Trần. Đối với tình thế Đại Việt, việc làm của ông được cho là có vai trò tích cực. Ông phò nhà Trần bình được nội loạn, làm cho Đại Việt kịp chấn hưng. Đó chính là cơ sở để đủ sức lực và tinh thần chống cự được Mông Cổ. 
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-5
Sử gia Lê Quý Đôn chép trong sách "Kiến văn tiểu lục" rằng Trần Thủ Độ sau khi chết, được chôn ở xã Phù Ngự, huyện Ngự Thiên (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình). Lăng có hổ đá, dơi đá, chim đá, bình phong bằng đá, chỗ đất ấy rộng 2 mẫu, cây cối um tùm. 
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-6
 Trần Thủ Độ kết hôn với Trần Thị Dung. Trước đó, bà là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, sau này lấy Trần Thủ Độ. Sau khi qua đời, bà được vua Trần phong làm Linh từ quốc mẫu năm 1259.
Ai tung noi “Dau than chua roi xuong dat, be ha dung lo“?-Hinh-7
Trần Thủ Độ từng từ chối phong tể tướng cho anh trai, thưởng cho người tố cáo ông chuyên quyền trước mặt vua, khen ngợi người lính chặn kiệu vợ mình theo phép nước, đòi chặt một ngón chân của người cháu xin ông chức tước nhỏ. 

Tin mới