Trận đánh "bản lề" đưa người Mỹ tới thảm bại tháng 12/1972

(Kiến Thức) - Ngày 16/4/1972, Mỹ cho B-52 đánh Hải Phòng phá hủy nhiều nơi mà không mất chiếc nào, nhưng chính “thắng lợi” ấy lại đưa họ tới thất bại "đau đớn” cuối năm 1972.

Trận đánh bản lề
Ngày 16/4/1972, Không quân Mỹ mở chiến dịch Linerbacker ném bom phá hoại trở lại miền Bắc để đáp trả cuộc tổng tấn công của quân ta đang diễn ra tại Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Vào ngày mở màn chiến dịch này, Không quân Mỹ đã cho B-52 ra rải thảm bom xuống Hải Phòng đồng thời cho hàng chục máy bay chiến thuật ném bom Hà Nội.
B-52 ném bom.
B-52 ném bom.
Đây là lần đầu tiên B-52 bay ra một vùng trời có hỏa lực phòng không mạnh mẽ như Hải Phòng. Rõ ràng năng lực phòng không của miền Bắc không yếu khi có hàng chục tên lửa đã phóng lên không. Tuy nhiên, người Mỹ có quyền phấn khích vì những tên lửa ấy phóng vào chỗ không khi người điều khiển tên lửa bị đánh lừa.
Trong hồi ký Bảo vệ bầu trời, Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu – nguyên phó chính ủy Quân chủ Phòng không – Không quân trong thời điểm 1972 kể về trận đánh ngày 16/4 tại Hải Phòng:
“Từ 23h đêm 15/4/1972, trên đã thông báo sẽ có B-52 ra đánh phá Hải Phòng. Lúc này, bộ đội đoàn H63 đang ở trong tình huống diễn tập theo phương án đánh B-52. Các phái viên của quân chủng đang có mặt ở sở chỉ huy và các trận địa. Rõ ràng đây là một điều kiện rất thuận lợi để đơn vị đánh thắng.
2h15 phút, cường kích vào đánh phá. 2h28 phút, trên bảng tiêu đồ ghi tình báo của tổng trạm radar, những tốp B-52 bắt đầu xuất hiện (Sau này ta mới biết đây là những tốp F-4 đóng giả B-52).
2h32 phút, tổng trạm radar lại thông báo có B-52 hoạt động ở độ cao 9 đến 10km. Các đơn vị của trung đoàn 285, 238 đã bắn hết hơn 10 quả đạn. Thấy không hiệu quả gì, sở chỉ huy sư đoàn nhắc nhở các đơn vị phải chú ý đánh chắc thắng, tiết kiệm đạn. Nhưng ngay sau đó, các tốp B-52 thật bắt đầu bay vào và loạt bom đầu tiên nổ vào lúc 2h56phút. Chính lúc này lại không thấy các tiểu đoàn tên lửa phóng đạn. Sở chỉ huy giục bắn thì các đơn vị báo cáo là không thấy gì hết cả. Mãi đến 3h36 phút, lúc loạt bom cuối cùng nổ và B-52 đã quay ra mới thấy có 5 quả đạn phóng lên.
Trận đánh ở Hải Phòng ngày 16/4/1972, quân Mỹ đã sử dụng F-4 "đóng giả" B-52 đánh lừa chiến sĩ tên lửa của ta.
 Trận đánh ở Hải Phòng ngày 16/4/1972, quân Mỹ đã sử dụng F-4 "đóng giả" B-52 đánh lừa chiến sĩ tên lửa của ta.
Trung đoàn 238 và trung đoàn 285 là 2 đơn vị được thành lập sớm nhất của bộ đội tên lửa. Cả hai đơn vị đều đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu. Đặc biệt, trung đoàn 238 là đơn vị từng bắn rơi B-52 ở Vĩnh Linh, ở hành lang 559. Quân chủng đã cân nhắc rất kỹ khi điều 2 trung đoàn này về bảo vệ Hải Phòng. Thế mà trận đánh đã diễn ra không đúng như lòng mong muốn của mọi người. Chỉ trong vòng chưa đầy một tiếng đồng hồ, cả hai trung đoàn đã phóng hàng chục quả đạn tên lửa để đổi lấy 1 chiếc B-52 nhưng không phải là rơi tại chỗ”.
Sau Hải Phòng vài giờ, vào lúc 9h sáng, máy bay B-52 cũng bay vào ném bom Hà Nội. Vẫn thủ đoạn giống như ở Hải Phòng, nhiều chiếc F-4 bay ở độ cao 9 đến 10 km và đường bay ổn định để đánh lừa ta. Hàng chục quả tên lửa đã nhằm vào đám F-4 này nhưng vì nó là máy bay chiến thuật, khi phát hiện tên lửa phóng lên là nó cơ động tránh đòn nên ta không hạ được chiếc nào.
Hậu quả là Tổng kho xăng dầu Đức Giang bị thiêu hủy một phần lớn, cháy hơn 1 tuần mới tắt. Ở Hải Phòng, lần đầu tiên bị B-52 rải thảm đã khiến hàng trăm dân thường thiệt mạng”.
Biến chuyển của hai bên sau trận đánh
Về phía Mỹ, sau “thành công” của trận đánh này, Lầu Năm Góc tuyên bố chắc chắn: “Bằng kỹ thuật điện tử, không lực Hoa Kỳ có thể bịt mắt toàn bộ hệ thống radar của Bắc Việt, có thể vô hiệu hóa toàn bộ hệ thống phòng không của đối phương… Giờ đây Không quân Mỹ có thể ném bom vào bất cứ mục tiêu nào trên lãnh thổ Bắc Việt Nam như đi dạo chơi”. Huênh hoang hơn, người ta còn nói rằng: “B-52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của bộ đội phòng không – không quân Bắc Việt”.
Bộ đội tên lửa SA-2 bàn phương án chiến đấu.
 Bộ đội tên lửa SA-2 bàn phương án chiến đấu.
Ngược với sự phấn khích của Mỹ, bộ đội phòng không không quân ta những ngày này rất căng thẳng. Trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân khiến những người lính canh trời ăn không ngon ngủ không yên.
Nhiều cuộc họp đã được tổ chức để rút kinh nghiệm và tìm ra nguyên nhân thất bại của trận đánh ngày 16/4. Trên Bộ Tổng tham mưu cũng cử xuống nhiều cán bộ chuyên môn để hỗ trợ. Sau những cuộc kiểm điểm nghiêm túc, quân chủng phòng không đã nhận rõ thủ đoạn mới của địch là dùng F-4 giả làm B-52. Mặt khác cũng nhìn rõ một thực tế là các trắc thủ lão luyện trưởng thành trong chiến đấu phần lớn đã giải ngũ. Hiện tại đội ngũ trắc thủ tên lửa phần lớn tân binh, còn non kinh nghiệm.
Sau khi nhận rõ nguyên nhân, ta đã tích cực khắc phục nhược điểm của mình đồng thời sáng tạo nhiều chiến thuật, biện pháp để đối phó với các thủ đoạn ngày càng tinh vi của địch. Quá trình đó của ta diễn ra liên tục cho đến tận khi bước vào chiến dịch Linerbacker II.
Tiêu biểu cho việc liên tục rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm của quân ta là việc phát hành và phổ biến cuốn cẩm nang “cách đánh B-52” mà cái tên nổi tiếng của nó là “cẩm nang bìa đỏ”. Không những thế, quân chủng còn tổ chức một đoàn cán bộ đến từng đơn vị chiến đấu để hướng dẫn, huấn luyện. Nhờ những nỗ lực đó, bước vào chiến dịch 12 ngày đêm, toàn bộ các đơn vị tên lửa đã nắm vững những kinh nghiệm chiến đấu với B-52 mặc dù có nhiều tiểu đoàn chưa từng giáp mặt loại máy bay này.
Đài thu - phát hệ thống radar điều khiển hỏa lực SNR-75 "đưa đường chỉ lối" đạn tên lửa S-75 Dvina hạ B-52.
 Đài thu - phát hệ thống radar điều khiển hỏa lực SNR-75 "đưa đường chỉ lối" đạn tên lửa S-75 Dvina hạ B-52.
Cuốn cẩm nang chỉ vẻn vẹn 30 trang nhưng là kinh nghiệm được tổng hợp và cập nhật trong nhiều năm nên rất thiết thực cho bộ đội tên lửa. Có thể kể một vài điểm: Để phân biệt B-52 giả với thật thì làm động tác phóng tên lửa lên đánh nhử. Nếu mục tiêu không cơ động tức là “bê” thật thì sẽ cho nhiều đơn vị cùng phóng còn nếu mục tiêu cơ động tức là F-4 giả làm “bê”. Để bắn B-52 trong màn nhiễu dày đặc thì dùng các phương pháp bắn 3 điểm và phương pháp vượt trước nửa góc…
Chính sự khác biệt ở hai bên sau trận đánh bản lề ngày 16/4 đã đưa đến kết quả là Mỹ đại bại còn ta chiến thắng giòn giã. Nhà bình luận quân sự Greenwood trong cuốn sách The Vietnam War, ở chương “B-52 trong vai trò ném bom chiến thuật” đã nhận xét rất xác đáng rằng: “5 phi vụ tiến hành hồi tháng 4, đặc biệt là trận oanh tạc Hải Phòng, đã dẫn các nhà vạch kế hoạch Mỹ tới những nhận định sai lầm. Hệ thống phòng không của Hà Nội không phải là yếu – đó là điều đã thấy rõ từ các cuộc oanh tạc trong chiến dịch Linerbacker lần trước, nhưng hiển nhiên điều đó đã được quan tâm quá ít”.

Việt Nam khắc chế bom thông minh của Mỹ thế nào?

* Bài viết có sử dụng tư liệu “Cuộc chiến đấu với bom mìn Mỹ - Dũng cảm và Trí tuệ”.

Tháng 8/1964, Mỹ dựng lên cái gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ” lấy cớ đưa không quân và hải quân ra đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Bật mí “rồng lửa” S-75M3 của phòng không Việt Nam

S-75 Dvina (NATO định danh là SA-2) là hệ thống tên lửa phòng không tầm cao được phát triển và đưa vào sử dụng tại Liên Xô từ năm 1957.

Quân đội nước nào sở hữu nhiều “rồng lửa” nhất ĐNA?

Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đầu tư khá ít cho lực lượng phòng không (kể cả Singapore và Indonesia). Các lực lượng các nước này hầu như chỉ trang bị một số ít tên lửa phòng không tầm thấp, tầm trung. Vì vậy, nếu xét về sức mạnh và số lượng kiểu loại thì Việt Nam là quốc gia trang bị nhiều “rồng lửa” nhất khu vực (7 loại).
Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đầu tư khá ít cho lực lượng phòng không (kể cả Singapore và Indonesia). Các lực lượng các nước này hầu như chỉ trang bị một số ít tên lửa phòng không tầm thấp, tầm trung. Vì vậy, nếu xét về sức mạnh và số lượng kiểu loại thì Việt Nam là quốc gia trang bị nhiều “rồng lửa” nhất khu vực (7 loại).

Đầu tiên là hệ thống tên lửa phòng không tầm cao S-75 Dvina (Nga sản xuất). Loại tên lửa này đã được quân đội ta hiện đại hóa lên chuẩn S-75M3 mạnh hơn tăng tầm bắn tới 60km, độ cao diệt mục tiêu 27km. Trong ảnh là “rồng lửa” S-75M3 rời bệ phóng trong cuộc diễn tập bắn đạn thật của Quân chủng Phòng không – Không quân.
Đầu tiên là hệ thống tên lửa phòng không tầm cao S-75 Dvina (Nga sản xuất). Loại tên lửa này đã được quân đội ta hiện đại hóa lên chuẩn S-75M3 mạnh hơn tăng tầm bắn tới 60km, độ cao diệt mục tiêu 27km. Trong ảnh là “rồng lửa” S-75M3 rời bệ phóng trong cuộc diễn tập bắn đạn thật của Quân chủng Phòng không – Không quân.

Thứ 2 là hệ thống tên lửa phòng không tầm trung – xa S-125 Pechora (Nga sản xuất). Một số đơn vị S-125 cũng đã được quân đội ta hiện đại hóa lên chuẩn S-125-2TM có những sự cải tiến đáng kể về radar, đạn tên lửa, khả năng triển khai thu hồi nhanh.
Thứ 2 là hệ thống tên lửa phòng không tầm trung – xa S-125 Pechora (Nga sản xuất). Một số đơn vị S-125 cũng đã được quân đội ta hiện đại hóa lên chuẩn S-125-2TM có những sự cải tiến đáng kể về radar, đạn tên lửa, khả năng triển khai thu hồi nhanh.

Hệ thống S-125-2TM hiện đại hóa có khả năng diệt mục tiêu ở tầm 35km, tầm cao đạt 25km. Thậm chí, hệ thống có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình với độ chính xác tới 80%. Trong ảnh là đạn tên lửa S-125-2TM rời bệ phóng tấn công mục tiêu trong diễn tập ở trường bắn TB1.
Hệ thống S-125-2TM hiện đại hóa có khả năng diệt mục tiêu ở tầm 35km, tầm cao đạt 25km. Thậm chí, hệ thống có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình với độ chính xác tới 80%. Trong ảnh là đạn tên lửa S-125-2TM rời bệ phóng tấn công mục tiêu trong diễn tập ở trường bắn TB1.

Thứ 3 là hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp tự hành 9K35 Strela 10 mà ta nhận được từ Liên Xô trong giai đoạn 1985-1986 (20 bệ phóng và 500 đạn). Hiện nay, cũng có thể chúng ta đã tự làm chủ công nghệ sản xuất đạn cho loại tên lửa này.
Thứ 3 là hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp tự hành 9K35 Strela 10 mà ta nhận được từ Liên Xô trong giai đoạn 1985-1986 (20 bệ phóng và 500 đạn). Hiện nay, cũng có thể chúng ta đã tự làm chủ công nghệ sản xuất đạn cho loại tên lửa này.

9K35 Strela 10 đạt tầm bắn xa đến 5km, độ cao diệt mục tiêu từ 10m tới 3.500m.
9K35 Strela 10 đạt tầm bắn xa đến 5km, độ cao diệt mục tiêu từ 10m tới 3.500m.

Thứ 4 là tổ hợp tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K32 Strela 2 được viện trợ cho Việt Nam từ năm 1972 (quân đội ta định danh là A72). Chúng ta có thể đã tự sản xuất được loại vũ khí phòng không hiệu quả này.
Thứ 4 là tổ hợp tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K32 Strela 2 được viện trợ cho Việt Nam từ năm 1972 (quân đội ta định danh là A72). Chúng ta có thể đã tự sản xuất được loại vũ khí phòng không hiệu quả này.

Tên lửa 9K32 Strela 2 đạt tầm bắn xa đến 4,2km, độ cao diệt mục tiêu từ 50m tới 2,3km.
 Tên lửa 9K32 Strela 2 đạt tầm bắn xa đến 4,2km, độ cao diệt mục tiêu từ 50m tới 2,3km.

Thứ 5 là tổ hợp tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K38 Igla có thể diệt mục tiêu ở cự ly xa đến 5,2km, tầm cao 3,5km. Ảnh minh họa nước ngoài.
Thứ 5 là tổ hợp tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K38 Igla có thể diệt mục tiêu ở cự ly xa đến 5,2km, tầm cao 3,5km. Ảnh minh họa nước ngoài.

Thứ 6 là hệ thống tên lửa phòng không tầm trung 2K12 Kub (Việt Nam nhận được 10 hệ thống cùng 600 quả đạn giai đoạn 1979-1980). Đạn tên lửa của 2K12 Kub có thể diệt mục tiêu ở tầm xa đến 24km, độ cao diệt mục tiêu từ 50m tới 12km. Ảnh minh họa nước ngoài.
Thứ 6 là hệ thống tên lửa phòng không tầm trung 2K12 Kub (Việt Nam nhận được 10 hệ thống cùng 600 quả đạn giai đoạn 1979-1980). Đạn tên lửa của 2K12 Kub có thể diệt mục tiêu ở tầm xa đến 24km, độ cao diệt mục tiêu từ 50m tới 12km. Ảnh minh họa nước ngoài.

“Khủng nhất” trong lực lượng phòng không Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung là hệ thống tên lửa tầm cao S-300 PMU-1. Việt Nam có trong biên chế 2 tiểu đoàn tên lửa loại này ở miền Bắc và miền Nam.
“Khủng nhất” trong lực lượng phòng không Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung là hệ thống tên lửa tầm cao S-300 PMU-1. Việt Nam có trong biên chế 2 tiểu đoàn tên lửa loại này ở miền Bắc và miền Nam.

S-300 PMU-1 được thiết kế để tiêu diệt mọi mục tiêu đường không (máy bay, trực thăng, UAV, tên lửa hành trình và thậm chí là tên lửa đạn đạo). Trong ảnh là đài radar chiếu xạ và điều khiển hỏa lực 30N6E có thể theo dõi cùng lúc 12 mục tiêu và dẫn bắn tên lửa hạ 6 mục tiêu cùng lúc.
S-300 PMU-1 được thiết kế để tiêu diệt mọi mục tiêu đường không (máy bay, trực thăng, UAV, tên lửa hành trình và thậm chí là tên lửa đạn đạo). Trong ảnh là đài radar chiếu xạ và điều khiển hỏa lực 30N6E có thể theo dõi cùng lúc 12 mục tiêu và dẫn bắn tên lửa hạ 6 mục tiêu cùng lúc.

Bệ phóng di động của S-3000 PMU-1 lắp 4 ống phóng tên lửa đạt tầm bắn xa tới 150km, độ cao từ 5m tới 27km.
Bệ phóng di động của S-3000 PMU-1 lắp 4 ống phóng tên lửa đạt tầm bắn xa tới 150km, độ cao từ 5m tới 27km.

Trong ảnh là đạn tên lửa hệ thống S-300 rời bệ phóng di động. Ảnh minh họa nước ngoài.
Trong ảnh là đạn tên lửa hệ thống S-300 rời bệ phóng di động. Ảnh minh họa nước ngoài.

Tin mới