“Trùng tang“: Có phải là mê tín?

Có ý kiến cho rằng, "trùng tang" ra đời từ thực tế của đời sống con người: "Sinh có hẹn tử bất kỳ”...

Để nói về nguồn gốc thì “trùng tang” không phải xuất xứ từ Trung Quốc cổ đại như nhiều ý kiến nhận định mà đây là khái niệm theo GS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch là mang màu sắc chung của văn hóa phương Đông nhưng trong đó, mỗi quốc gia vẫn có những cái riêng và những cái riêng ấy, đôi khi cũng ảnh hưởng đến nhau qua các thời kỳ, nghĩa là Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến Việt Nam và ngược lại.
Tuy nhiên, nếu áp đặt nó khởi nguồn từ một một quốc gia nào cụ thể thì không chính xác. Cũng như không thể xác định về mặt thời gian trùng tang ra đời năm, tháng… Chỉ biết, trên cơ sở sự ra đời của nhiều quan niệm khác trong tín ngưỡng, bao giờ cũng vậy, trải qua một quá trình lịch sử, có sự trải nghiệm thực tế, hiện tượng mới được đúc kết thành quan niệm rồi đi vào đời sống. Dẫu quan niệm ấy có thể vẫn mơ hồ đến nỗi không thể chạm vào hay gọi thành tên một cách cụ thể. Mà ở đây, trong hiện tượng “trùng tang”, “trùng” ám chỉ linh hồn của người chết hay sự việc “trùng” bắt người khác đi theo (buộc phải cùng chết) không thể nhìn hay sờ thấy được…
Nơi "nhốt trùng" ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh.
 Nơi "nhốt trùng" ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh.

Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu tín ngưỡng, các vấn đề về tâm linh phải như vậy mới “linh”, mới tồn tại trong đời sống tín ngưỡng đến hôm nay và chắc chắn sẽ cả trong tương lai. Bởi suy đến cùng, không có gì cụ thể trong tâm linh theo kiểu “người trần mắt thịt”, chỉ thực thực, hư hư đầy huyền ảo như đúng tên gọi của nó.

Vì là thực thực hư hư nên cái ranh giới giữa mê tín và không mê tín trong tâm linh nói chung và trong hiện tượng “trùng tang” nói riêng cũng rất mong manh. Về bản chất các vấn đề về tâm linh đều là hư cấu, thần thánh hóa các nhân vật có thật và dựa trên môi trường sống xung quanh con người theo kiểu “cha trời mẹ đất” với mục đích tôn vinh, tưởng nhớ, đánh dấu các hiện tượng thời tiết, địa lý... Do đó, dưới góc độ văn hóa, tín ngưỡng không thể mê tín. Nhưng do cách nhìn nhận và ứng xử của con người mà nó trở thành mê tín hoặc không, nghĩa là hoặc là người ta làm lệch lạc bản chất của tín ngưỡng (dị đoan) hay thông qua tín ngưỡng để trục lợi hoặc là coi tín ngưỡng đúng như bản chất của nó - hướng thiện con người về mọi mặt.

Bởi vậy, cái duy nhất, có thể nhìn thấy được, sờ thấy được để phân biệt sự mê tín và không mê tín của phong tục tập quán mang màu sắc tâm linh chính là sự trục lợi của người tham gia tín ngưỡng. Còn sự phân biệt trên cơ sở có “tuyệt đối hóa” lòng tin đối với tín ngưỡng hay không nói chung rất khó nói như nhận định của GS Ngô Đức Thịnh do tất yếu một điều khi tham gia tín ngưỡng, người ta phải có niềm tin.

Nói về sự trục lợi trong tín ngưỡng để phân biệt mê tín hay không mê tín thì sự trục lợi đó không chỉ xảy ra giữa con người với con người mà còn giữa con người với thần thánh. Cụ thể, chuyện người ta đi cầu cúng, lễ lạt rồi bày biện la liệt lễ vật, thậm chí cả tiền mặt với quan niệm “tốt lễ dễ kêu”, thần thánh sẽ phù hộ độ trì cho “cầu được ước thấy”. Như thế chả là trục lợi “thánh thần” và mê tín là sao?

Trở lại với chuyện “trùng tang”, chắc chắn đây không phải là chuyện mê tín dị đoan xét về bản chất mà là một hiện tượng trong đời sống tâm linh. Nhận định như cả hai nhà nghiên cứu văn hóa có thể coi là hàng đầu như GS Ngô Đức Thịnh và nhà văn hóa Trần Lâm Biền: “Những gì đã thuộc về đời sống tâm linh thì không nên đi tìm lời giải đáp có hay không, đúng hay sai, thực hay hư. Bởi sẽ không bao giờ tìm được cũng như không ai chứng minh được nó đúng hay sai… Mà hãy để nguyên nó như vậy. Quan trọng là chúng ta ứng xử với nó thế nào để rồi không trở thành mê tín dị đoan. Với “trùng tang” cũng thế”.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, một bạn đọc đã nghiên cứu rất kỹ về “trùng tang” từ quan niệm đến cách trừ giải… đã khẳng định với báo giới: “Theo quan sát và chiêm nghiệm của tôi trước nhiều người chết và tình trạng xảy ra sau đó với người thân của người quá cố, có 4 trường hợp xảy ra: thứ nhất, người chết bị trùng tang kể cả đã làm giải trùng, nhưng người thân vẫn mất theo sau đó, thậm chí nhiều người liên tiếp. Trong trường hợp này, người sống rất hoang mang, lo sợ. Thứ hai, người quá cố bị trùng tang có khi không làm giải “trùng”, nhưng người thân vẫn hoàn toàn “bình an vô sự”, có khi còn gặp may mắn. Trong trường hợp này, người thân tin không có chuyện “trùng tang”. Thứ ba, người quá cố không bị trùng tang, thậm chí là chết đúng số, vào giờ đẹp… song người thân vẫn gặp rủi ro, bất trắc, kể cả có người chết. Trường hợp này, người sống không tin vào việc dự báo có trùng tang hay không. Thứ tư, người quá cố không bị trùng tang và gia đình, người thân vẫn bình an kể từ khi trong nhà có người quá cố. Do đó, người còn sống không màng đến chuyện “trùng tang” và cho rằng, người chết đã “đúng số”.

Như vậy, với những quan sát, chiêm nghiệm trên đây thì càng thấy việc đi tìm đúng hay sai, thực hay hư chuyện trùng tang… như GS Ngô Đức Thịnh và nhà văn hóa Nguyễn Lâm Biền nhận định là không nên làm. Lại đúng hơn với quan niệm của Phật giáo mà ở bài “Thực hư về cái gọi là “trùng tang” đã nói, đại ý là: Sống chết là do nghiệp lực (nôm na là do phúc hay tội) của mỗi người quyết định. Nghiệp tuy có chung và riêng song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định, có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế, Phật giáo hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ mất cũng như chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác…”.

Bởi vậy, không nên mê tín và biến chuyện “trùng tang” thành mê tín để rồi cho người khác trục lợi. Còn nói như nhà Phật: “Vì tập tục đã ăn sâu vào tâm thức mọi người nên Phật giáo vẫn khuyên các phật tử không an táng thân quyến vào những ngày “trùng” nhằm giúp họ tâm an và lo lắng chu toàn cho người đã khuất, đồng thời nỗ lực cầu nguyện cho linh hồn được siêu thoát. Như vậy là làm được một việc: “âm dương lưỡng lợi” theo quan điểm của Phật giáo”.

Quan điểm duy vật thì quan niệm có bệnh khắc phải chữa, nghĩa là có hiện tượng “trùng tang”, sẽ có cách giải. Và một trong những cách giải ấy là nhờ nhà chùa “nhốt trùng” hoặc một số cách dùng các vị thần sa, chu sa, địa liền... cho vào túi rồi đặt trong quan tài người chết; dùng bộ linh phù để gối đầu, hoặc dán lên ngực... như ở bài “Thực hư chuyện trùng tang” chúng tôi đã nêu.

Có ý kiến cho rằng, "trùng tang" ra đời từ thực tế của đời sống con người: "Sinh có hẹn tử bất kỳ”, do đó, người sống lo lắng cho người chết không biết chết đã "đúng số" chưa hay chết oan uổng và cái chết ấy có ảnh hưởng tới người sống không, nếu có thì sẽ như thế nào… Đây là nguyện vọng chính đáng mà người sống lo cho vong linh của người đã khuất và để giải tỏa cho mình thì họ nghĩ ra những cách giải cũng mang màu sắc hết sức tâm linh. Từ đó khái niệm về "trùng tang", nhập mộ ra đời.

“Trùng tang” có hay không?

Trùng tang là một hiện tượng mà từ trước tới nay vẫn luôn được thêu dệt một cách huyền bí, mang màu sắc tâm linh rõ rệt và thể hiện “quyền lực” siêu nhiên không giới hạn của con người ngay cả khi đã… chết.

Những cái chết “liên trận kỳ hồi”

Cách đây hơn một năm, nhiều tờ báo đưa tin về trường hợp “trùng tang” ở quận Tây Hồ, Hà Nội rất đáng sợ. Đó là một gia đình trong một ngày xảy ra 2 cái chết của bố chồng và nàng dâu cách nhau chưa đến 5 tiếng đồng hồ. Điều đáng nói là người con dâu đang khỏe mạnh bình thường, vẫn còn đang tất bật chuẩn bị “hậu sự” cho bố chồng thì bỗng nhiên đột tử vì cảm. Để tránh không chôn cất cùng một giờ, hơn nữa, chưa được “giờ đẹp” nên người bố “hạ huyệt” trước, sau đó người con dâu mới được khâm liệm và hạ huyệt sau.

Khỏi phải nói gia tộc đó hoảng sợ đến mức nào, nhất là người con trai cả đồng thời cũng là chồng của người vợ quá cố. Anh rất lo lắng cho đứa con trai độc nhất 15 tuổi và cả bản thân mình. Vì người ta bảo nhà anh bị “trùng tang”. Từ trước tới nay anh có biết “trùng tang” là gì đâu, hơn nữa, những chuyện như vậy chẳng khi nào anh quan tâm do không biết thực hư thế nào. Nhưng khi trong gia đình mình cùng lúc 2 cái chết của bố và vợ thì anh hoảng hồn thực sự, đến nỗi ai bảo gì anh làm nấy để gọi là tránh chuyện tương tự xảy ra.

Lý giải chuyện gặp tai ương do...nghiệp chướng

Dân gian đúc kết, nghiệp chướng như người có lỗi, tích tụ từ nhiều năm, nhiều đời, mà khi có lỗi phải xin lỗi, phải sống tốt, thực sự thành tâm hối cải. Cũng có không ít gia chủ, nghĩ mình gặp “nghiệp chướng” đã tìm mọi cách để hóa giải, cả núi tiền đổ vào lễ lạt, tìm thầy cao tay để mong thoát khỏi vận hạn. Trong khi “nghiệp” vẫn treo lơ lửng...

Tu tại tâm là hình thức được nhiều người lựa chọn. Ảnh minh họa.
 Tu tại tâm là hình thức được nhiều người lựa chọn. Ảnh minh họa.

“Nghiệp chướng” qua góc nhìn của nhà tâm linh học

Trong dân gian khi bất kỳ ai đó gặp điều không may mắn từ khi mới sinh ra hay trong cuộc sống thường nhật đều buông sẵn câu than thở: “kiếp trước… làm gì nên tội để bây giờ gặp nghiệp chướng thế này”. Tôi đã nhiều lần nghe như vậy nên cũng thắc mắc muốn tìm hiểu nghiệp chướng là gì?

Tìm đến những nhà nghiên cứu tâm linh, thiếu tướng, nhà văn Chu Phác nói với tôi ngắn gọn, dễ hiểu: “Nghiệp chướng thường được tích tụ lâu, thậm chí từ kiếp trước (với những người tin có tiền kiếp, có kiếp sau gọi chung là luân hồi chuyển kiếp-PV); cũng có khi nghiệp chướng được dựng lên ngay trong cuộc sống hiện tại, những người trong gia đình gây ra và báo ứng vào con cái, anh em, người thân của họ. Vì thế dân gian vẫn nói: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”. “Nghiệp” đơn giản là người sống mắc lỗi và tai ương được trả cho người khác với mức độ nặng nhẹ khác nhau”. Với những người theo đạo Phật thì nghiệp chướng có gì đó gần với thuyết nhân quả, “gieo nhân nào nhận quả ấy”.

Tuy nhiên, theo quan điểm riêng của một số chuyên gia nghiên cứu tâm linh thì nghiệp chướng còn nặng nề hơn nhân- quả, bởi nó không chỉ trả cho một người mà nó trả cho nhiều người, kéo dài cho nhiều đời kế tiếp.

Điều không nên


Những điều không may mắn xảy đến, nhiều người không biết nguyên nhân từ đâu, không ít người hoang mang tìm đến những thầy bói, những cô đồng để tìm lý do của tiền kiếp. Nhiều người quá tin thầy, mang rất nhiều tiền trao cho thầy làm đại lễ giải hạn, cúng tế triền miên mong hóa giải nghiệp chướng. Nhưng tai ương vẫn cứ sầm sập kéo đến bất chấp việc cúng lễ có thành tâm đến đâu. Thậm chí, nhiều người cứ tin rằng, những thầy bói, hay “thầy phù thủy” cao tay có thể hóa giải được nghiệp chướng. Có những người thì tìm đến cửa Phật, mong sự ăn năn sẽ tạo điều tốt đẹp giảm đi tai ương.

Tôi chưa biết thực hư những câu chuyện nghiệp chướng như thế nào. Nhưng qua những nhà ngoại cảm, những người mà chúng ta vẫn bán tín bán nghi rằng: Họ gặp gỡ nói chuyện được với người đã khuất thì nghiệp chướng quả là đáng sợ. Nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Sinh (Hải Dương) kể câu chuyện về bà Nguyễn Thị Mùi (Hoành Bồ- Quảng Ninh) có con bị kết án tử hình đã thi hành án, nấm mồ con đã được chôn cất trong Khe Luồn nhưng vẫn một mực đội đơn đi kêu oan cho con. Bà cứ tin con bị oan là do điềm mộng báo về.

Cứ theo mộng mị, người đàn bà mất con ấy từ Quảng Ninh lần tìm đến Hải Dương “áp vong”. Trong lần nghe “cô đồng” nói con bà chết vì nghiệp chướng từ người cha “trả” về cho con. (Ông chồng bà Mùi trước đây đã từng ăn trộm tượng phật ở chùa).

Trước những lời nói “như đúng rồi” ấy, tôi gặp bà Mùi tìm hiểu thêm, bà kể lại: “Năm ấy, tôi sinh thằng con trai (đã qua đời ấy), khi cháu còn bế ngửa thì có chuyện ông chồng tôi ăn trộm tượng Phật. Ngày ấy, ông ta là kẻ nát rượu, vũ phu. Một lần ra chùa, ma xui, quỷ khiến thế nào, ông ấy lấy luôn pho tượng di-lặc về nhà, giấu trong bồ thóc. Khi ấy, đặt con ngủ, tôi ra lấy thóc đi xay, vừa mở cái nón ra thấy ngay ông tượng mở đôi mắt trừng trừng nhìn. Tôi sợ quá ngất lịm đi, trước đó tôi còn nghe thấy tiếng thằng con trai khóc hét lên. Chuyện trộm tượng Phật là có thật, nhưng tôi không ngờ rằng nghiệp chướng của cha lại báo oán về con trai tôi nặng như thế”.

Về sau, đem chuyện này kể lại với nhiều nhà ngoại cảm, tôi được nghe phán “tội lấy trộm, phá hủy tượng phật thì nghiệp nặng lắm”. Cũng qua những người nghiên cứu tâm linh, tôi được nghe nhiều chuyện khó tin nhưng nhiều người vẫn cho là có thật.

Chị Thái Vân (cộng tác viên của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) kể lại cho tôi câu chuyện về một gia đình ở Thái Bình. Gia đình này có 5 người con trai, cụ nội họ do mâu thuẫn chẳng may đánh chết con trai độc nhất của nhà hàng xóm. “Oan oan tương báo” của hai nhà mãi ba đời sau mới nguôi ngoai, nhưng cũng lúc ấy tai họa liên tục đổ lên đầu nhà có 5 suất đinh. Đầu tiên ông bố gặp tai nạn qua đời, rồi thầy phán trùng tang. Sau thời gian ngắn cậu con trai chết bất đắc kỳ tử vì cảm nắng. Đi xem bói thầy phán nhà có trùng tang nếu không trấn yểm, lễ lạt tùng sẽ bắt hết trai đinh. Còn ông Chu Phác thì nhìn nhận: “Đó là nghiệp tích tụ từ kiếp trước đòi trả”.

Cách hóa giải hiệu quả nhất là hối cải và sống tốt


Một bậc Tôn sư của đạo Phật trong bài thuyết pháp đã cho rằng: “Thể xác thân: Biểu hiện bằng hành động. Thể cảm thọ hay thể vía : Biểu hiện bằng tình cảm. Thể trí: Biểu hiện bằng tư tưởng. Tam thể này thường xuyên gây chướng nghiệp, vì thế mà con người cứ mãi trôi lăn trong lục đạo luân hồi . Đối với một linh hồn trải qua vô số kiếp tiến hóa nơi cõi trần gian này đã tạo ra biết bao nghiệp chướng . Đến khi phát tâm ăn chay, tập làm điều thiện, cải sửa tâm tư, tu hành từ bực hạ thừa tiến dần qua thượng thừa, thọ pháp thiền định. Nhưng vì nghiệp chướng đã gieo tạo từ vô số kiếp đã kết thành trược khối nặng nề, luôn ám ảnh, thế nên không thể tu hành trong đôi ba năm mà có thể hoàn toàn hóa giải hết được”.

Nhiều người tin rằng, muốn hóa giải nghiệp chướng chỉ còn cách ăn chay, niệm Phật một cách thành tâm. Nhưng một số người mê muội cho rằng cứ sám hối thật nhiều thì nghiệp chướng sẽ tiêu tan nên chẳng màng xác thân hao mòn ngày đêm tụng niệm mà nghiệp chướng vẫn còn nguyên.

Lý giải điều này, các bậc cao tu, pháp sư Tịnh Không (Tạp chí Phật học) cho rằng: Bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó công đức niệm Phật của một ngày đêm dù là giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều mà vẫn chưa dứt sạch. Cho nên cần phải mỗi ngày đến niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt thêm nghiệp chướng. Phật dạy chúng ta rằng: năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Với ba yếu tố này năng lực của không xen tạp mạnh nhất, nếu quý vị giữ được liên tục không gián đoạn trong ba năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết.

Nhìn nhận thực tế này, nhà xã hội học, TS. Trịnh Hòa Bình cho rằng: Người ta không muốn nói về những chuyện đời phức tạp nên họ đã kiếm tìm vào sự huyền bí. Người dân đến và tin sự huyền bí là đã chối bỏ thực tại. Họ đặt niềm tin ở những chỗ khác siêu thoát hơn, thanh thản hơn, thậm chí nó cũng cao thượng hơn. Có những chuyện các nhà khoa học đến cắt nghĩa lại gặp khó khăn nhất định nhưng không phải không cắt nghĩa được. Vấn đề này, nhìn theo góc độ tâm lý - xã hội học thì chúng ta đang ở trong thế giới đa cực, mong muốn rất nhiều do người ta muốn thay đổi. Khi chưa thay đổi được thì họ tìm vào tất cả những chuyện kỳ vĩ để hướng suy nghĩ, tâm tư vào đó.

TS Trịnh Hòa Bình.
 TS Trịnh Hòa Bình.

Người đang bỏ nhiều tâm sức nghiên cứu về nghiệp chướng, Thiếu tướng, Nhà văn Chu Phác khẳng định: “Hóa giải nghiệp chướng không hề đơn giản, nhiều người mất cả núi tiền cũng không được. Điều này cũng giống như người có lỗi, khi xin lỗi tùy từng lỗi họ được tha thứ ngay, nhưng có lỗi không thể tha thứ. Muốn chuộc lỗi ấy người ta phải tu nhân, tích đức làm nhiều việc tốt bù trì cho người khác để được thanh thản trong tâm. Đấy là một cách để hóa giải nghiệp chướng”.

Hướng thiện giúp con người ta cư xử có tình người hơn

“Dù con người ta gặp điều không may, dù hóa giải được hay không, nhưng họ tin vào Phật, vào sự siêu nhiên đó cũng là một cách giải thoát. Có một điều, nếu có nhiều người tin theo Phật, làm theo lời Phật dạy, họ sẽ không dám làm điều ác. Điều này, xét về mặt xã hội là tốt bởi con người sẽ hành xử với nhau có tình người hơn, chứ không mang tính cơ học như con người trần tục của xã hội hiện đại”

(Nhà xã hội học,TS Trịnh Hòa Bình)

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU



Ma cà rồng hay xuất hiện ở đâu?

(Kiến Thức) - Dãy núi Carpathian ở Transylvania, nghĩa trang ở New Orleans… được cho là "hang ổ" trú ngụ của ma cà rồng.

Đông Âu là nơi khởi phát về truyền thuyết ma cà rồng nổi tiếng và cũng là địa điểm có phong tục truyền thống đi săn loài quỷ khát máu này. Con người dường như tìm thấy chúng ở khắp nơi trên thế giới. Dưới đây là một số địa điểm được báo cáo là ma cà rồng xuất hiện. Đối với những người yếu tim, họ được khuyên là không nên đến những nơi có mặt trong danh sách này.

Tin mới