Tục tắm tất niên trong cung đình Việt xưa vương giả thế nào?

(Kiến Thức) - Vào thời điểm chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán thì tắm tất niên trở thành một phong tục mang ý nghĩa tốt đẹp. Với bậc đế vương, thậm chí còn có hẳn quy định về nghi thức tắm tất niên, một điều mà không phải ai cũng rõ.

“Tất niên” được hiểu là kết thúc năm cũ để chuẩn bị đón năm mới. Các hành động, sự kiện ở thời điểm những ngày cận tết thường có ý nghĩa “tống cựu nghinh tân” và mang tính nghi thức, từ lâu đã trở thành phong tục, trong đó có tục “tắm tất niên”.
Thời gian trước Tết là những ngày tháng mùa Đông lạnh giá, thường có mưa phùn, gió bấc, ẩm thấp vì vậy tắm không phải là sinh hoạt thường ngày như vào những ngày hè nóng bức hay mùa thu mát mẻ. Tuy nhiên, để chuẩn bị đón giao thừa và mừng năm mới, dù thời tiết có thế nào thì ai ai cũng đều sắp xếp để tắm vào thời điểm thuận lợi nhất. Có thể hiểu việc tắm trước Tết (gọi là tắm tất niên) theo nghĩa đen, đó là việc vệ sinh thân thể cuối cùng trong năm cũ.
Với nồi nước nóng nấu với các loại lá thơm, ngoài “tẩy uế” làm sạch cơ thể, tắm tất niên còn mang ý nghĩa tinh thần. Mùi thơm của nước tắm tạo cảm giác thư thái và khi tắm người ta thấy dường như không chỉ thân thể được sạch sẽ mà tâm hồn cũng được “thanh tẩy” trở lên sảng khoái, tinh khiết hơn.
Loại cây được dùng nhiều trong tắm tất niên là cây mùi già. Bó mùi già với quả, hoa được cho vào nồi nước đun sôi lên tạo nước xanh với hương thơm tỏa ra một mùi thơm ngát rất dễ chịu. Người xưa quan niệm rằng mùi thơm đó có ý nghĩa đẩy lùi và rửa sạch những điều không tốt của năm cũ trên thân thể để đón chào năm mới với những điều tốt lành.
Tuc tam tat nien trong cung dinh Viet xua vuong gia the nao?
 Phủ chúa Trịnh. (Hình minh họa – Nguồn: vanhien). 
Nếu như trong dân gian việc tắm tất niên không quá câu nệ về thời gian, hình thức thì đối với bậc quyền quý, đây lại là một nghi thức rất được coi trọng, được đặt thành định lệ hẳn hoi. Như vào thời Lê Trung Hưng, khi vua Lê chỉ ngồi ngai vàng mang tính biểu tượng thì quyền lực lại nằm cả trong tay chúa Trịnh, chính vì thế những điển chế, pháp luật hay quy tắc được xây dựng trong thời kỳ này, ngoài phần của vua còn có các nội dung đề cập đến chúa.
Trong sách Lê triều hội điển, một tác phẩm ghi chép về các chế độ, luật lệnh của 6 cơ quan là Hộ thuộc, Lại thuộc, Binh thuộc, Hình thuộc, Công thuộc và Lễ thuộc có một phần đề cập đến việc tắm tất niên.
Ở phần Binh thuộc, có quy định về “Lệ hầu tắm” đề cập đến nhiệm vụ của binh lính trong việc bảo vệ, phục vụ nghi lễ hầu chúa Trịnh tắm tất niên như sau:
“Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp, có lễ hầu tắm. Quan Binh phiên vào báo trước cho Tiểu giám sáu cung và quan binh các cơ đội thuyền, Thể sát, Thị hầu đều mặc áo mũ bằng gai, chiếu theo bản đồ xếp hàng thứ tự. Ngày 29, mười hai cơ hiệu Thị hầu xếp hàng, sau giờ Ngọ sai đi tuần xem xét trước, chờ nghe hiệu trống thì đem binh lần lượt tiến vào. Quan Đề lĩnh giữ phủ, vào buổi tối đem quân đến túc trực. Sớm hôm đó, đội Nghiêm nhất đánh một tiếng trống, đội Bả môn mở cổng. Binh Thị vệ tiến vào. Hiệu Thị trung đánh trống nghiêm lệnh, các hiệu lần được đánh trống, rước chúa ngự đến lầu thay áo.
Kiệu nhất gõ chiêng báo thu quân về cung, truyền cho các quan Thân huân và hiệu cung Thị hữu, Thị hậu rước chúa cởi áo tắm gội. Đội Nhưng nhất, Kiệu nhất ngồi nghỉ. Quan văn võ các hiệu lần lượt tiến đến điếm chầu, chờ truyền đánh trống tiên nghiêm. Hiệu Tiền phát lệnh đi đứng cho hồi quân. Đội Nhưng nhất đánh trống tiến trước, rước chúa lên xe về cung. Quan Binh phiên vẫy quạt, Binh thị hầu tề chỉnh hô to, xong lần lượt đi ra”.
Qua ghi chép trên có thể thấy nghi lễ tắm tất niên của chúa Trịnh được tiến hành bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp với sự chuẩn bị chu đáo và chính thức diễn ra vào ngày 29 tháng Chạp.
Đối với Hoàng đế thì khác, theo ghi chép của một cố đạo phương Tây vào năm Mậu Tuất (1658) thì: “Từ ngày 30 Tết đã có 3.000 lính đứng trực trên những con đường mà vua đi qua. Chiều ngày 30 Tết, vua ngự ra sông tắm tất niên để sáng mồng 1 đầu năm các đại thần vào chúc Tết”.

Những vụ loạn luân chấn động trong cung đình Việt Nam (4)

- Theo quan niệm đạo đức của người Việt, loạn luân là một tội lỗi không thể được dung thứ. Tuy vậy, vì các nguyên nhân khác nhau mà không ít vụ loạn luân đã từng xảy ra trong cung đình Việt Nam.

Từ loạn luân đến loạn nước

Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) - vị chúa Nguyễn thứ 8 trong lịch sử bị coi là người đã đẩy sự nghiệp của các chúa Nguyễn vào tình trạng rối ren vì loạn luân với một người trong họ.

Vốn có công lớn trong công cuộc Nam tiến và xây dựng thành Phú Xuân (Huế ngày nay), nhưng về cuối đời, Võ Vương bắt đầu say mê tửu sắc. Đây là cơ hội để Trương Phúc Loan, người cậu ruột đầy mưu mô tìm cách thao túng chúa. Để thực hiện ý đồ, Loan đã đẩy cháu mình vào mối tình loạn luân với người cô em con chú là Công nữ Ngọc Cầu.

Ngọc Cầu vốn là một người con gái có nhân sắc trời phú. Nắm được bản tính hiếu sắc của Võ Vương, Trương Phúc Loan đã tạo điều kiện cho Ngọc Cầu thường xuyên ra vào trong Vương phủ và gần gũi với chúa.

Những chuyện tình éo le nhất trong cung đình Việt Nam (3)

Tưởng như kết duyên với vua chúa là điều diễm phúc, vậy mà có những người đẹp thà tự sát, điên loạn hoặc trở thành ni cô chứ không chấp nhận điều này…

Thà chết chứ không làm vợ vua

Đánh đâu thắng đấy trong cuộc chiến dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh được suy tôn là Vạn Thắng vương. Vậy mà khi trở thành hoàng đế, ông đã “thua trắng” khi muốn đánh chiếm trái tim của một cô thôn nữ có tên là Nguyễn Thị Hoa Nương.

Hoa Nương quê ở đất Quảng An thuộc Ái châu (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Tương truyền bố mẹ cô ăn ở thiện lành, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chỉ có một ước nguyện họ không đạt được là có một đứa con.

Vào một ngày mùa hè oi bức, mẹ Hoa Nương đang ngồi hóng mát trên một gò đất nhỏ, được gọi là gò Kim Quy thì bỗng thấy trong người choáng váng, bụng đau âm ỉ. Đủ 9 tháng 10 ngày, bà sinh hạ một nữ nhi. Lúc đứa bé ra đời hương thơm lan tỏa khắp nhà như một điềm lành. Hai vợ chồng rất vui mừng và đặt tên con là Hoa Nương.

Càng lớn, Hoa Nương càng trở nên xinh đẹp lạ thường. Đến năm 18 tuổi, cô đã nổi tiếng khắp gần xa. Biết bao chàng trai tài giỏi đã tìm đến cầu hôn cầu hôn nhưng đều bị chối từ.

Danh tiếng của Hoa Nương đã lan đến tận kinh đô Hoa Lư. Vua Đinh Tiên Hoàng lúc này dù đã lập 5 hoàng hậu và có nhiều phi tần nhưng vẫn bị nhan sắc của thôn nữ chinh phục.

Nhà vua cho người mang lễ vật mời cha mẹ Hoa Nương về triều và tỏ ý muốn tuyển con gái họ vào làm vương phi. Hai vợ chồng vui mừng rỡ về nhà nói lại với Hoa Nương, nhưng lạ thay cô gái đã kiên quyết từ chối lời mời của vua. Theo lời Hoa Nương, cô muốn sống trong cảnh thôn quê, phụng dưỡng cha mẹ chứ không muốn sống trong cảnh gò bó lễ nghi trong cung đình.

Không thuyết phục được con, cha mẹ Hoa Nương đành viết thư gửi về triều đình xin nhận tội. Nhưng có lẽ hiểu được tâm tư của Hoa Nương nên vua không đoái hoài gì nữa. Về phần Hoa Nương, sợ rằng vì mình mà cha mẹ sẽ bị vua trừng phạt nên đã tìm đến cái chết ở sau nhà để chuộc lỗi…

Không chịu lấy chúa, từ giả điên thành... điên thật

Vào giai đoạn ác liệt trong cuộc đối đầu với nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh đã phải lẩn trốn khắp vùng sông nước Cửu Long trước sự truy lùng của đối phương. Năm 1787, ông về trú tại làng Tân Long xứ Sa Đéc. Thấy dân làng thuần hậu, ông đổi tên làng thành Long Hưng (nay thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Tại ngôi làng này, Nguyễn Phúc Ánh được ông Nguyễn Văn Mậu, một bậc hào phú, giúp đỡ hết mình. Gia đình ông Mậu đã mở cả kho lúa của mình làm lương thực, xuất tiền của để chu cấp cho đội quân chúa Nguyễn nhiều tháng trời. Ngoài ra, ông còn vận động con cháu và trai trẻ trong làng đi theo chúa Nguyễn.

Đáp lại nghĩa cử của Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Phúc Ánh gọi ông là “Ông Bõ”, nghĩa là cha nuôi.

Không chỉ giúp đỡ về quân sự, ông Mậu còn ngỏ ý muốn gả con gái út của mình cho Nguyễn Phúc Ánh làm vợ lẽ, và bản thân chúa Nguyễn cũng đã ưng thuận. Nhưng cô gái không bằng lòng, chỉ muốn giữ mối quan hệ với chúa Nguyễn ở “tình anh em” mà thôi.

Để chúa Nguyễn không còn vương vấn, cô đã giả điên, thường tự bôi bẩn mặt mũi, xõa tóc rũ rượi và làm những điều quái dị.

Nhưng điều này không làm chúa Nguyễn quên cô mà chỉ khiến ông buồn đau, tiếc thương cho số phận một cô gái trẻ đẹp. Ông Mậu cũng không hiểu, tưởng con gái mình ưu tư đến mất trí, lòng cũng vô cùng đau đớn.

Trớ trêu thay, từ giả điên, cô gái phát cuồng thật, tâm trí rối loạn mà thành bệnh mà qua đời.

Cũng có lời kể khác cho rằng, cô gái không dám trái lời cha nên chấp nhận lấy chúa Nguyễn, nhưng khi đoàn thuyền rước đi từ nhà ra chốn hành cung, cô đã lợi dụng đêm tối đẻ nhảy xuống sông và biệt tích luôn kể từ đó.

Từ chối làm vương phi để xuống tóc đi tu

Thời giặc Lương đô hộ nước Việt, ở trang Vân Lộng xứ Đông (nay thuộc xã An Bình, huyện Nam Sách, Hải Dương) có ông Phạm Lương là người có chí khí. Vợ mất sớm, một mình ông nuôi cô con gái Phạm Thị Toàn trở thành người tài sắc và luôn nhắc nhở con về nỗi đau mất nước.

Năm 541, khi nghe tin Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa ở Thái Bình, cha con ông đã bán nhà cửa, tài sản để mộ quân tham gia cùng nghĩa quân. Với thanh thế rất lớn, chỉ trong vòng 3 tháng, quân Lý Bí đã đánh tan giặc Lương, khiến chúng phải bỏ chạy về về phương Bắc.

Trong các cuộc chiến, Phạm Thị Toàn tuy là nữ nhi nhưng đã chứng tỏ được sự dũng cảm phi thường và trở thành một nữ tướng nổi danh, được quân dân kính nễ và kẻ thù khiếp sợ.

Sau khi đất nước giành được quyền tự, đến năm 542, Phạm Thị Toàn lại tham gia đánh tan âm mưu tái lập ách đô hộ của giặc Lương khi chúng kéo quân qua biên giới và đến năm 543 theo lão tướng Phạm Tu đánh tan quân Lâm Ấp ở phía Nam.

Các chiến tích của Phạm Thị Toàn đã góp phần ổn định được tình hình đất nước. Năm 544, Lý Bí lên ngôi tự xưng là Nam Việt Đế (sử thường gọi là Lý Nam Đế), lấy niên hiệu là Thiên Đức và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.

Sau khi lên ngôi, vưa nhớ đến người con gái xinh đẹp và tài giỏi Phạm Thị Toàn nên cho người đón nàng vào cung lập làm vương phi. Nhưng Phạm Thị Toàn đã từ chối và ngỏ ý muốn được về quê hương chăm sóc mộ phần cha mẹ, vui thú ruộng rồng và nghe câu kinh tiếng kệ.

Biết rằng không thể lay chuyển ý định của người phụ nữ có ý chí thép, Lý Nam Đế đã chấp thuận nguyện vọng của Phạm Thị Toàn. Từ đó, nàng ở lại quê nhà lập chùa tịnh tu cho đến khi mất. Sau khi Phạm Thị Toàn qua đời, người dân đã lập đền thờ tôn bà làm thành hoàng.

Hoàng Phương

Tin mới