Vị Hoàng đế kì lạ: Chỉ ăn chơi, hễ thấy trộm là vờ như không

Lý Cao Tông được biết đến là vị Hoàng đế ăn chơi khét tiếng và từng xây dựng dinh thự không ngớt. Dưới thời trị vì của vị Hoàng đế này giặc giã và trộm cướp trong nước nổi lên như ong, nhân dân đói khát khổ sở gấp bội những năm khác.

Thú chơi “chẳng giống ai” của vua Lý Cao Tông

Lý Cao Tông tên thật là Lý Long Trát hay Lý Long Cán, là con trai thứ sáu của Lý Anh Tông, mẹ là Thục phi Đỗ Thụy Châu. Ông sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173).

Năm 1174, Lý Anh Tông truất ngôi con cả là Lý Long Xưởng và phong Lý Long Trát làm Hoàng thái tử, ủy thác cho Tô Hiến Thành giúp đỡ. Năm 1175, Lý Anh Tông băng hà, Chiêu Linh thái hậu muốn lập con mình là Lý Long Xưởng lên ngôi, bàn tính âm mưu phế truất. Nhưng nhờ Thái uý Tô Hiến Thành kiên quyết ngăn cản, ra tay trước nên kế hoạch bị phát giác, Long Xưởng bị đuổi ra khỏi cung, Chiêu Linh thái hậu bị giam lỏng. Lý Cao Tông vẫn được tôn phò ở ngôi báu.

Vi Hoang de ki la: Chi an choi, he thay trom la vo nhu khong

Khi Tô Hiến Thành tuổi già sức yếu, vì vua mới lên 7 tuổi nên trước lúc qua đời ông đã tiến cử Trần Trung Tá với Đỗ Thái hậu để giúp vua. Thái hậu dù khen hay nhưng cuối cùng không theo lời, lấy Đỗ An Di là em trai của bà làm phụ chính. Và có lẽ đó là mầm mống khiến suốt 35 năm (1175 - 1210), trị vì đất nước sự nghiệp và công trạng của Lý Cao Tông để lại cho hậu thế gần như chẳng có gì.

Có chăng là tiếng xấu về sự ham chơi bời, tiêu phí sản nghiệp quốc gia cho những thú vui chơi vô bổ của vua. Nào là ưa phương thuật, sự lạ, tin tài sai bảo hổ của sư Tây Vực năm Đinh Mùi (1187). Lại chăm việc thổ mộc, xây dựng cung Nghiêm Thiềm năm Đinh Tỵ (1197), dựng gác Kính Thiên năm Quý Hợi (1203)…

Đặc biệt, vua rất ưa vi hành, nhưng không phải là quan tâm muôn dân trăm họ, mà để thỏa chí tò mò, sự ham vui chơi của bản thân, như lời Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại: Vua ngự đi khắp núi sông, phàm ngự đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ (…) vua xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực.

Vua nhìn thấy trộm nhưng vờ như không biết

Để có tiền thỏa sức ăn chơi, vua Lý Cao Tông đã trở thành vị vua duy nhất của triều Lý công nhiên cho mua quan bán tước; tệ tham nhũng, hối lộ trong những năm cuối ở ngôi của ông diễn ra tràn lan.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:"Vua thì thích làm tiền, các quan phần nhiều bán quan chức, buôn hình ngục…".

Vi Hoang de ki la: Chi an choi, he thay trom la vo nhu khong-Hinh-2

Còn sách Đại Việt sử lược cho biết: "Vua rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan buôn ngục làm chính sự. Hai người nào mà tranh nhau ruộng đất, sản vật, hễ một người đem dâng nạp rồi thì vua chẳng hỏi tình lý phải trái thế nào đều tịch thu sung công cả. Vì thế mà kho đụn của nhà nước của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán thán".

Sử chép: "Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém" (Đại Việt sử ký toàn thư).

Chỉ nghĩ đến mình, không nghĩ đến dân, sử chép rằng vào năm Bính Dần (1206) trong nước mất mùa, đói kém xảy ra khắp nơi khiến người chết rất nhiều còn vua thì vẫn rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt, nghe ngoài cung nhiều việc nhiễu nhương vẫn không để tâm lo lắng.

Một lần Lý Cao Tông ngự giá đi dạo trên hoàng thành bỗng khi ấy phía dưới chân tường xảy ra vụ cướp trắng trợn giữa ban ngày. Người mất của kêu la mong mọi người giúp đỡ nhưng vào thời buổi loạn lạc, người hay sợ kẻ gian nên chẳng ai dám làm gì.

Tiếng gào khóc cứ thế càng thảm thiết hơn, một đại thần trong đoàn hộ giá thấy cả vua và các quan đều chỉ chú tâm ngoạn cảnh mà lờ đi vờ như không nghe thấy tiếng kêu ai oán của dân mới tâu rằng: "Nay trộm cướp ngày càng nhiều, khắp nơi chúng ngang nhiên làm bậy. Xin bệ hạ cho người đi lùng bắt, dẹp bọn thảo tặc để dân chúng được nhờ".

Vua nghe thế không nói gì, phất tay áo ra hiệu cho đoàn rước tiếp tục đi đến điểm vui chơi khác.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại ngắn gọn việc này như sau: "Bấy giờ vua xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực, hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp, lờ đi giả cách không biết".

"Gian hùng" nào đội trời đạp đất, góp công dựng nghiệp nhà Trần?

Kiến Quốc Đại vương Trần Tự Khánh nổi tiếng có tài kinh luân, mưu lược quyết đoán, cầm quân vững chắc. Ông được xem như người xây dựng nền móng triều Trần nhưng cũng bị đánh giá là một tay "gian hùng" trong sử Việt. 
 
 
 

Kiến Quốc Đại vương Trần Tự Khánh (1175 - 1223) là người Tam Đường, phủ Long Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông là con thứ của tướng Trần Lý, anh Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung và anh họ Trần Thủ Độ.
 Kiến Quốc Đại vương Trần Tự Khánh (1175 - 1223) là người Tam Đường, phủ Long Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông là con thứ của tướng Trần Lý, anh Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung và anh họ Trần Thủ Độ.
Chính sử thường kể đến cuộc đổi ngôi lịch sử với vai trò của Thái sư Trần Thủ Độ, thế nhưng ông là người đã kế tục những thành quả mà một tay Kiến Quốc Đại vương Trần Tự Khánh đã gây dựng suốt 14 năm vẫy vùng, đánh dẹp thiên hạ, kiến nghiệp nhà Trần.
Chính sử thường kể đến cuộc đổi ngôi lịch sử với vai trò của Thái sư Trần Thủ Độ, thế nhưng ông là người đã kế tục những thành quả mà một tay Kiến Quốc Đại vương Trần Tự Khánh đã gây dựng suốt 14 năm vẫy vùng, đánh dẹp thiên hạ, kiến nghiệp nhà Trần. 
Năm 1209, loạn Quách Bốc, Lý Cao Tông phải chạy khỏi kinh thành lên Quy Hóa (Phú Thọ ngày nay) còn Thái tử Sảm (vua Lý Huệ Tông sau này) chạy đến nhà Trần Lý, một thế lực lớn ở Hải Ấp (nay là xã Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình) và cưới con gái nhà này là Trần Thị Dung làm vợ. Thái tử Sảm phong cho Trần Lý tước Minh tự đem hương binh dẹp loạn.
 Năm 1209, loạn Quách Bốc, Lý Cao Tông phải chạy khỏi kinh thành lên Quy Hóa (Phú Thọ ngày nay) còn Thái tử Sảm (vua Lý Huệ Tông sau này) chạy đến nhà Trần Lý, một thế lực lớn ở Hải Ấp (nay là xã Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình) và cưới con gái nhà này là Trần Thị Dung làm vợ. Thái tử Sảm phong cho Trần Lý tước Minh tự đem hương binh dẹp loạn.
Năm 1210, Trần Lý tử trận. Con thứ 2 là Tự Khánh lên thay, cai quản quân gia. Những năm sau này, Trần Tự Khánh là người nam chinh bắc chiến, đánh đông dẹp tây và đưa dòng họ Trần bước vào vũ đài lịch sử.
Năm 1210, Trần Lý tử trận. Con thứ 2 là Tự Khánh lên thay, cai quản quân gia. Những năm sau này, Trần Tự Khánh là người nam chinh bắc chiến, đánh đông dẹp tây và đưa dòng họ Trần bước vào vũ đài lịch sử. 
Năm 1211, Lý Huệ Tông lên ngôi, sách lập Trần Thị Dung làm nguyên phi; phong anh nguyên phi là Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu (sử Nguyễn chép là Chương Tín hầu).
Năm 1211, Lý Huệ Tông lên ngôi, sách lập Trần Thị Dung làm nguyên phi; phong anh nguyên phi là Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu (sử Nguyễn chép là Chương Tín hầu). 
Tuy nhiên Đàm Thái hậu, mẹ vua Huệ Tông khi đó rất ngờ dã tâm của người họ Trần nên tìm mọi cách để tiêu diệt Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung.
 Tuy nhiên Đàm Thái hậu, mẹ vua Huệ Tông khi đó rất ngờ dã tâm của người họ Trần nên tìm mọi cách để tiêu diệt Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung.
Vua Huệ Tông không có chủ kiến. Một mặt ông giao hết binh quyền cho Trần Tự Khánh để dẹp các phiên trấn khác nên lệnh cho trăm quan văn võ đều phải nghe theo Chương Thành hầu. Nhưng mặt khác lại nghe lời mẹ nên dễ dàng đổi ý với Trần Tự Khánh.
 Vua Huệ Tông không có chủ kiến. Một mặt ông giao hết binh quyền cho Trần Tự Khánh để dẹp các phiên trấn khác nên lệnh cho trăm quan văn võ đều phải nghe theo Chương Thành hầu. Nhưng mặt khác lại nghe lời mẹ nên dễ dàng đổi ý với Trần Tự Khánh.
Đầu 1213, Đàm Thái hậu ngầm hẹn các tướng đánh úp quân của Trần Tự Khánh. Nhưng Trần Tự Khánh là người mưu lược nên dễ dàng phản kích lại. Đại Việt sử lược chép: Trần Tự Khánh dẫn quân vào cung cấm đốt cầu Ngoạn Thiềm rồi kéo về bến Đại Thông.
Đầu 1213, Đàm Thái hậu ngầm hẹn các tướng đánh úp quân của Trần Tự Khánh. Nhưng Trần Tự Khánh là người mưu lược nên dễ dàng phản kích lại. Đại Việt sử lược chép: Trần Tự Khánh dẫn quân vào cung cấm đốt cầu Ngoạn Thiềm rồi kéo về bến Đại Thông. 
Sau vụ đó, Trần Tự Khánh tìm cách dàn hòa để về dưới trướng của Huệ Tông. Khi việc bất thành, ông đánh luôn kinh sư và tiếp tục xin theo dưới trướng vua nhưng không được đồng ý.
Sau vụ đó, Trần Tự Khánh tìm cách dàn hòa để về dưới trướng của Huệ Tông. Khi việc bất thành, ông đánh luôn kinh sư và tiếp tục xin theo dưới trướng vua nhưng không được đồng ý.
Thấy vua Huệ Tông không đồng ý, Trần Tự Khánh lập tức có đối sách khác là lập vua Lý khác lên ngôi. Việc tự ý lập vua khác trong khi vua cũ chưa truyền ngôi thời xưa được coi là đại nghịch bất đạo.

Thấy vua Huệ Tông không đồng ý, Trần Tự Khánh lập tức có đối sách khác là lập vua Lý khác lên ngôi. Việc tự ý lập vua khác trong khi vua cũ chưa truyền ngôi thời xưa được coi là đại nghịch bất đạo.  

Những vị quan nước Việt thanh liêm thời phong kiến được người đời tôn kính

Lịch sử phong kiến Việt Nam hàng ngàn năm qua ghi nhận nhiều vị quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Có người không vì vàng bạc châu báu mà làm chuyện đại nghịch, có người liêm khiết thương dân đến độ được coi là Phật sống.

Nhung vi quan nuoc Viet thanh liem thoi phong kien duoc nguoi doi ton kinh
 Điện thờ quan tri huyện Nguyễn Thiện Năng ở Miếu Thần Minh. Ảnh: Pháp luật Việt Nam
Dân kính trọng, đạo tặc tránh xa

Tướng quân người Việt giúp Triều Tiên đánh bại quân Nguyên là ai?

Trong quá khứ, có một danh tiếng Đại Việt dùng binh pháp của người Việt để chặn đứng đà xâm lăng của vó ngựa Nguyên Mông trên bán đảo Triều Tiên...

Hoàng tử Lý Long Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ 7 của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138-1175) và Hiền Phi Lê Mỹ Nga. Đến thời vua anh Lý Cao Tông, ông được ban chức Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc hải quân, tước Kiến Bình vương (Theo Trần tộc Vạn thế Ngọc phả của dòng dõi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc để tại từ đường thuộc thị xã Lãnh Thủy, huyện Chiêu Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc).

Tuong quan nguoi Viet giup Trieu Tien danh bai quan Nguyen la ai?

Tin mới