Vì sao Cao Bá Quát từ quan, dấy binh khởi nghĩa chống nhà Nguyễn?

Triều đình nhà Nguyễn dưới sự cai trị của vua Tự Đức là nơi tập hợp của những kẻ bất tài, tuy đồng liêu, đồng triều nhưng lại coi nhau như súc vật.

Theo sử cũ, vào năm 1851, dưới sự trị vì của vua Tự Đức, một ông vua chỉ biết đến thơ phú chứ không lo gì đến đời sống của muôn dân trăm họ. Vốn là người có chí khí, thấy dân tình khổ quá mà vua quan nhà Nguyễn đều là một lũ bất tài vô hạnh, hại nước hại dân, nên Cao Bá Quát càng thêm chán ghét. Năm 1852, ông cáo quan bỏ về nhà và quyết chí lập nghiệp. Ông đi khắp vùng Hà Nội, Hà Đông, Hòa Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang để xem xét tình hình và chiêu tập nghĩa sĩ.

Vi sao Cao Ba Quat tu quan, day binh khoi nghia chong nha Nguyen?

Bất mãn vì vua quan thối nát, Cao Bá Quát dấy binh khởi nghĩa.

Giữa năm ấy, tổng đốc Bắc Ninh là Nguyễn Quốc Hoan nhận được tin cáo giác Cao Bá Quát đang ngấm ngầm hoạt động thì giật mình, cấp báo về kinh. Vua Tự Đức bèn xuống chiếu khẩn cấp tróc nã bằng được Cao Bá Quát và treo giải cho ai bắt sống được Cao Bá Quát thì thưởng năm trăm lạng bạc, nếu chém lấy đầu đem nộp thì thưởng ba trăm lạng với quan tước lục phẩm. Trước tình hình đó, Cao Bá Quát đã bí mật kéo quân sang Sơn Tây. Mấy ngàn nghĩa binh theo Cao Bá Quát họp nhau tại khu rừng ngang, huyện Mỹ Lương (Hà Sơn Bình) làm lễ tế cờ. Lê Duy Cự, một người dòng dõi nhà Lê, được tôn làm minh chủ. Cao Bá Quát làm quốc sư. Trong lễ tế cờ, Cao Bá Quát nói với mọi người:

- Bọn ta đều là người trong khoa giáp, binh nghiệp, chí khí có kém ai. Nay gặp phải đời vua hèn hạ, ngu dốt, khinh người như cỏ rác, quan thì tham tàn khiến dân khổ trăm đường, bởi thế bọn ta phải vào rừng núi nổi nghĩa binh như đức Cao Hoàng xưa. Các ông nên gắng sức cho nghiệp lớn mau thành!

Nói xong Cao Bá Quát chia quân làm năm đạo giao cho năm tướng bí mật dẫn đi mai phục sẵn, hẹn đến giữa tháng Mười thì nhất tề đánh chiếm các phủ thành Ứng Hòa, Thanh Oai, An Sơn (thuộc Quốc Oai), Vĩnh Tường, Tam Dương. Tháng Mười năm ấy, nghĩa binh thình lình nổi lên đánh tới. Quân triều đình bị đánh úp bất ngờ nên thua to.

Tin dữ bay vào Huế, vua Tự Đức cả sợ nửa đêm vội sai một bầy tướng tá điều ngay hai ngàn rưỡi quân Thanh Nghệ đem súng thần công theo đường thủy gấp ra Bắc ứng cứu. Quân triều đình đông tới hàng vạn nên nghĩa binh chống không lại. Tướng Nguyễn Khắc Quyết bị bắt sống. Các cánh quân khác cũng bị bắt, bị giết, tổn hại nhiều. Tình thế gấp nên quốc sư họ Cao quyết định thân dẫn quân đi tiếp viện. Tướng sĩ có người can:

- Quốc sư đi chuyến này e trúng kế điệu hổ ly sơn của giặc. Xin quốc sư tính lại để lo chuyện về sau.

Cao Bá Quát không nghe mà còn khẳng khái nói:

- Ta dẫu chết chứ không thể bỏ tướng sĩ trong cơn hoạn nạn!

Dứt lời, Cao Bá Quát nai nịt gọn ghẽ nhảy lên ngựa, lập tức dẫn quân bản bộ đi ngay. Mờ sáng hôm sau thì đến và hô quân xông vào đánh luôn. Chẳng dè, viên suất đội triều đình là Đinh Thế Quang được tin mật báo, ngầm đem pháo thủ phục sẵn đón đường và bắn như đổ đạn. Cao Bá Quát trúng đạn tử trận. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương sau đó cũng tan dần, nhưng người đời vẫn không ngớt lời truyền tụng về chí khí và văn tài của Thánh Quát.

Lời bàn:

Dưới thời phong kiến, tất cả mọi Nho sinh đều có chung một suy nghĩ, một mong muốn là học hành giỏi giang để đỗ đạt rồi ra làm quan phò vua giúp nước. Cao Bá Quát cũng là người như vậy. Song, triều đình nhà Nguyễn dưới sự cai trị của vua Tự Đức lúc bấy giờ lại là nơi tập hợp của những kẻ bất tài, tuy đồng liêu, đồng triều nhưng lại coi nhau như súc vật. Và chính cuộc sống quan trường ấy đã giúp cho Cao Bá Quát có một cái nhìn khác, một quan niệm khác về sự trung quân. Theo ông, một vị vua không biết chăm lo cho đời sống của muôn dân mà buộc mọi người vẫn cứ phải trung thành là điều vô lý.

Và chính từ cái điều vô lý ấy đã thôi thúc ông từ bỏ cuộc sống làm quan để rồi tự mình chiêu tập quân sĩ chống lại nhà vua, với mong ước thay chế độ để thay đổi cuộc sống của người dân. Tuy ý nguyện của ông không thành, song nó đã manh nha trong lòng người dân đất Việt thời đó một tư tưởng mới: Trung với vua không phải là trung với nước, mà trung với nước tức là phải biết chăm lo cho cuộc sống bình yên của muôn dân. Vâng, “dân vi bản” - dân là gốc, mọi chế độ chính sách đều bắt nguồn từ quyền và lợi ích của dân thì quốc gia, dân tộc ấy sẽ trường tồn.


Ma Cốc cổ tự - cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp

Ma Cốc cổ tự (Magoksa) tọa lạc tại TP. Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do), Hàn Quốc.
 Ma Cốc cổ tự (Magoksa) tọa lạc tại TP. Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do), Hàn Quốc.

Ma Cốc cổ tự do Hòa thượng Luật sư Từ Tạng (Jajangyulsa) khai sơn vào thế kỷ thứ VII, khoảng năm 640.
 Ma Cốc cổ tự do Hòa thượng Luật sư Từ Tạng (Jajangyulsa) khai sơn vào thế kỷ thứ VII, khoảng năm 640.

 

 

 

Nằm phía đông sườn núi Thái Hoa (Taehwasan) và được bao quanh bởi dòng sông uốn cong hình âm dương, tạo thế phong thủy địa lý tuyệt vời.
 Nằm phía đông sườn núi Thái Hoa (Taehwasan) và được bao quanh bởi dòng sông uốn cong hình âm dương, tạo thế phong thủy địa lý tuyệt vời.

 

Đạo mạch truyền lưu hậu thế cho Phật giáo Hàn Quốc, đây là một trong những Tổ đình giáo dục đào tạo Tăng tài cho nhiều thế hệ.
 Đạo mạch truyền lưu hậu thế cho Phật giáo Hàn Quốc, đây là một trong những Tổ đình giáo dục đào tạo Tăng tài cho nhiều thế hệ.

 

 

Có lẽ thiên nhiên ban tặng cho thế đất thiêng vượng khí, cho nên ngôi Thánh địa Già Lam mãi hưng thịnh bền vững, không bao giờ bị hư hỏng, bởi bất kỳ cuộc chiến tranh lớn nào, nhất là trong thời kỳ Triều Tiên (Joseon) (1392-1910).
Có lẽ thiên nhiên ban tặng cho thế đất thiêng vượng khí, cho nên ngôi Thánh địa Già Lam mãi hưng thịnh bền vững, không bao giờ bị hư hỏng, bởi bất kỳ cuộc chiến tranh lớn nào, nhất là trong thời kỳ Triều Tiên (Joseon) (1392-1910).

Ngôi Già Lam cổ tự này có biết bao những bậc Quốc sư, Cao tăng thạc đức, Trụ pháp vương gia, Trì Như Lai tạng, tiếp tăng độ chúng, hoằng hóa độ sinh.
 Ngôi Già Lam cổ tự này có biết bao những bậc Quốc sư, Cao tăng thạc đức, Trụ pháp vương gia, Trì Như Lai tạng, tiếp tăng độ chúng, hoằng hóa độ sinh.

 

Ngôi cổ tự được tô điểm đẹp nhất là mùa xuân, quanh chùa núi hoa anh đào, sansuyu, và hoa mộc lan nở rực ngát hương thơm tỏa khắp vùng, thêu dệt thêm như một bức tranh tuyệt hảo. Khiến du khách mãi ngắm nhìn và ai cũng muốn chụp ảnh lưu niệm.
Ngôi cổ tự được tô điểm đẹp nhất là mùa xuân, quanh chùa núi hoa anh đào, sansuyu, và hoa mộc lan nở rực ngát hương thơm tỏa khắp vùng, thêu dệt thêm như một bức tranh tuyệt hảo. Khiến du khách mãi ngắm nhìn và ai cũng muốn chụp ảnh lưu niệm.

Vị Quốc sư cuối cùng của triều Nguyễn

Ngài sinh ngày 11-9-Giáp Tuất (1874) trong một gia đình họ Phạm tín kính Tam bảo ở thôn Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đông Xương (nay là làng Trung Kiên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị, tỉnh kề cận với kinh đô. Thuở ấu thời, thế danh của ngài là Phạm Văn Phổ (Xuân Khiêm).

Chùa nào ở Hà Nội thường xuyên tổ chức lễ cưới?

Ngoài những nhà hàng, khách sạn sang trọng tổ chức lễ cưới, ngày nay không ít bạn trẻ đã tìm đến cửa Phật để làm lễ Hằng thuận.

Lễ Hằng thuận hay còn gọi là lễ cưới tại chùa theo nghi thức Phật giáo dưới sự chứng minh của đức Phật và chư tăng ni, phật tử, đặc biệt là sự chúc phúc của 2 bên gia đình cho đôi tân lang, tân nương…

Một lễ hằng thuận được tổ chức tại chùa Đình Quán (huyện Từ Liêm, Tp.Hà Nội).
 Một lễ hằng thuận được tổ chức tại chùa Đình Quán (huyện Từ Liêm, Tp.Hà Nội).
Nghi thức tổ chức lễ Hằng thuận bao gồm 15 mục như: dâng hương, lạy Bụt, khai thị, giao bái, trao nhẫn, nghe giảng pháp về đạo vợ chồng, nói lời ước nguyện... Tuỳ theo nhu cầu tâm linh hay hoàn cảnh kinh tế, thời gian mức độ tổ chức…mà đôi tân lang tân nương có thể tiến hành đủ các mục hoặc có thể giảm bớt các nghi thức này.
Có thể nhận thấy, việc tổ chức đám cưới ở chùa đã kết hợp được những nghi thức của nhà phật với nét đẹp của đám cưới truyền thống. Nó là cầu nối giữa đạo và đời, nó hướng cho các bạn trẻ tới một gia đình tâm linh, gìn giữ đạo đức truyền thống của dân tộc, hạnh phúc hài hoà về mọi mặt. Đồng thời nó cũng tạo ra bản sắc riêng trong phong tục cưới hỏi của dân tộc.
Vậy ở Hà Nội có những ngôi chùa nào thường xuyên tổ chức lễ Hằng thuận? Ban biên tập trang phatgiao.org.vn xin gợi ý một số chùa như sau:
1. Thiền viện Sùng Phúc
- Trụ trì: Đại đức Thích Tâm Thuần
- Địa chỉ: Tổ 10, phường Cự Khối, Quận Long Biên
- Điện Thoại: 04.38751302 – 22155177
- Mobile: 0986.708951 – 0982.868859
2. Chùa Bằng A
- Trụ trì: Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm
- Địa chỉ: Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai
- Điện thoại: 04.3688.4354
3. Chùa Lý Triều Quốc Sư
- Trụ trì: Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm
- Địa chỉ: Số 50 Lý Quốc Sư, Quận Hoàn Kiếm
- Điện thoại: (04)38261010
4. Chùa Vạn Phúc
- Trụ trì: Đại đức Thích Chiếu Tuệ
- Địa chỉ: Thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn
- Điện thoại: 091 434 8787
5. Chùa Đình Quán
- Trụ trì: Sư thầy Thích Tịnh Quán
- Địa chỉ: Thôn Đình Quán, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm
- Điện thoại: 090 954 8898
Người khởi xướng ra nghi lễ Hằng Thuận là ông đồ Nam Tử, ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) quê ở Hải Dương. Ông đã đưa ra quan điểm “Đạo Phật nên được dấn thân và hoà hợp vào quần chúng”. Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 một trí thức đã tổ chức đám cưới tại chùa Từ Đàm – Huế cho con gái mình.
Hưởng ứng lời kêu gọi của ông đồ Nam Tử, năm 1937 Hoà thượng Thích Thiện Hoa đã dùng 2 chữ Hằng Thuận (với ý nghĩa nói luôn luôn hoà thuận) để chỉ việc kết hôn trước của phật. Trong chùa, chư tăng không gọi đám cưới là “Lễ cưới hỏi” mà gọi là “Lễ Hằng thuận”, điều đặc biệt trong buổi lễ phải có một nhà sư chủ trì làm chủ lễ.

Tin mới