Vì sao "Nam không lấy vợ năm - Nữ không lấy chồng sáu"

Người xưa trải qua mấy ngàn năm, vận dụng hết những kinh nghiệm mà họ vốn có, đúc kết thành những câu tục ngữ có ý nghĩa giáo dục.

Nam không lấy vợ năm

Đây là câu dân gian được người xưa truyền lại, ý nghĩa vốn dĩ không khó hiểu, chủ yếu khuyên nam nữ tìm đối phương để kết hôn, chuẩn bị bước vào hôn nhân tránh được những điều xấu càng tốt.

Vi sao

Đối với đàn ông, việc lấy vợ không chỉ là chuyện của hai người mà còn là chuyện của hai gia đình. Thế nên ngày xưa khi mai mối lúc nào con người đề cao chuyện đẹp đôi, ngoài việc quan tâm đến ngày sinh của hai bên thì họ cũng coi trọng 5 khía cạnh của người phụ nữ đó là:

  • Thứ nhất Không hiếu thuận: Người phụ nữ không hiếu thuận được với cha mẹ thì không thể nào lấy về làm vợ. Hiếu thảo chính là nền tảng của gia đình. phụ nữ càng hiếu thảo thì đàn ông càng được nhờ.
  • Thứ 2 Không có đạo lý: Phụ nữ bất nghĩa thì không thể cưới làm vợ. Làm vợ thì nhất định phải biết tôn trọng chồng. Nếu chẳng may cưới về người vợ kiêu ngạo thì cuộc sống hôn nhân chẳng thể hạnh phúc.
  • Thứ 3 lợi dụng tình cảm: Trong cuộc sống không ít lần chúng ta đều từng thấu hiểu tâm trạng của mình về mối quan hệ đang rạn nứt chỉ vì bị ném đá giấu tay, bị lợi dụng.
  • Thứ 4 ích kỷ: Phụ nữ ích kỷ lúc nào chỉ nghĩ đến bản thân mình mà chẳng quan tâm đến người khác. Nếu một người chỉ yêu bản thân mình rồi thơ ơ với tất cả thì sớm muộn cũng bị xa lánh.
  • Thứ 5 cưa sừng làm nghé: Đàn ông giống như con nghé vậy. … Chớ lấy vợ đẹp làm trâu cắm sừng. Loại phụ nữ này cũng nên cẩn thận, vì lập gia đình là sống cả đời, nếu phụ nữ chi tiêu không kiểm soát, tiêu xài hoang phí, một khi thu chi mất cân đối sẽ mang lại nhiều phiền phức cho gia đình.
  • Nữ không lấy chồng sáu

  • Thứ nhất không hiếu thuận: Người xưa lúc nào coi trọng đạo hiếu, thế nên nếu người đàn ông không tốt với cha mẹ, đừng mong sẽ tốt với vợ con.
  • Thứ 2 không dám nghĩ dám làm: Nghèo không có gì là ghê gớm cả, nhưng điều khủng khiếp chính là người đàn ông không có động lực lại còn lười biếng. Người chồng như vậy không có trách nhiệm chăm sóc vợ con.
  • Vi sao

  • Thứ 3 hay cờ bạc: Đàn ông cơ bạc thì sớm muộn khuynh gia bại sạn, vợ chồng ly tán vì ham mê cờ bạc mà thôi.
  • Thứ tư thích bạo lực: Kiểu đàn ông bạo lực này không thể kết hôn, trước hôn nhân ôm bạn lên trời, nhưng sau khi kết hôn sẽ đấm đá bạn xuống mặt đất. Lấy một người đàn ông như vậy cũng khó hạnh phúc.
  • Thứ 5 trêu hoa ghẹo cỏ: Đàn ông thế này tốt nhất đừng cưới, bởi kiểu đàn ông này dù có vợ vẫn lâu lâu đi ngoại tình, tai tiếng tiếp diễn mà thôi.
  • Thứ 6 tâm địa hẹp hòi: Một người đàn ông hẹp hòi thì không thể nào cưới làm chồng được. Người đàn ông như vậy lúc nào tính toán chi ly, cuộc sống hôn nhân vô cùng mệt mỏi.
  • Người xưa để đồ trong ống tay áo, vì sao đồ không bị rơi ra?

    Chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh người xưa cất đồ ở ống tay áo trong các bộ phim cổ trang Trung Quốc, Hàn Quốc. Vậy tại sao đồ lại không rơi ra.

    Câu trả lời vô cùng đơn giản, họ may túi ở bên trong cánh tay áo.

    Nguoi xua de do trong ong tay ao, vi sao do khong bi roi ra?

    Ảnh minh họa.

    Trước thời kỳ nhà Hán, người ta cũng may các loại túi ở bên ngoài với tác dụng là để tiền hay các vật nhỏ. Nhưng sau đó họ cho rằng may như vậy trông rất kỳ quặc, lộ liễu, do đó mà chuyển sang may bên trong. Nhưng may túi ở chỗ nào tiện nhất, thì chỉ có thể là ở cánh tay.

    Nguoi xua de do trong ong tay ao, vi sao do khong bi roi ra?-Hinh-2

    Ảnh minh họa.

    Túi may trong cánh tay sẽ có kết cấu kiểu túi rộng, miệng túi hẹp và hướng luôn hướng lên trên, đảm bảo đồ vật không thể rơi ra ngoài. Cánh tay càng rộng thì may được túi càng rộng, càng đựng được nhiều đồ.

    Miệng túi luôn hướng quay lên trên, do đó dù để tay theo tư thế nào đồ vật cũng sẽ không rơi ra ngoài.

    Cánh tay áo của người xưa không chỉ dùng với mục đích che thông thường, mà còn để lau mồ hôi, che nắng, lau nước mắt, che mặt,… nhất là với mục đích thẩm mỹ, hoặc công cụ múa hát.

    Bên cạnh đó, người xưa còn quan niệm rằng, những người mặc trang phục với ống tay rộng còn thể hiện họ là người có tiền, sống nhàn hạ, chỉ có những người làm việc nặng mới mặc áo có ống tay hẹp. 

    Người xưa thường dùng nến đọc sách trong đêm nhưng sao không ai bị cận thị?

    Trong ánh đèn dầu, ánh nến lờ mờ, các bậc hiền nhân vẫn giữ được đôi mắt sáng rõ là nhờ bí kíp gì.

    Chúng ta – những người hiện đại - thường nghe vô số câu chuyện về các tấm gương hiếu học, "mài kinh nấu sử", ngày đêm rèn luyện. Thời xưa, người ta chủ yếu dùng ánh đèn nến để đọc sách, đó là với những gia đình khá giả, còn với những anh học trò nghèo thì còn dùng tới ánh trăng hay ánh sáng từ đom đóm.

    Học tập trong điều kiện ánh sáng kém như vậy, tại sao họ không bị cận thị?

    Có một điều phải khẳng định là, học tập dưới môi trường ánh sáng kém trong một thời gian dài chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới thị lực nhưng điều kiện học tập thời xưa không giống như ngày nay, cho nên việc bị cận là rất khó xảy ra.

    Trong xã hội phong kiến xưa, người dân đa số là mù chữ, chỉ có một số con cái gia đình giàu có mới có điều kiện đi học. Vậy nên số người đọc sách cũng ít thì tỉ lệ bị cận cũng thấp.

    Nguoi xua thuong dung nen doc sach trong dem nhung sao khong ai bi can thi?

    Ảnh minh họa.

    Thứ hai, do hoàn cảnh thời xưa không hiện đại như ngày nay, ban đêm không có nhiều loại đèn sáng như ban ngày như đèn compact, ra đường cũng ít người đem theo đèn, mà đèn thời xưa cũng là đèn dầu, ánh sáng yếu. Người xưa lớn lên trong điều kiện ánh sáng yếu như vậy thì mắt cũng dần quen với thứ ánh sáng đó.

    Một yếu tố quan trọng phải kể đến là chiếc bút. Bút mà người xưa dùng là bút lông, rất dài, khi viết thì đầu phải ngẩng cao, mắt xa trang giấy, chữ viết thời xưa cũng to hơn bây giờ, dễ nhìn hơn, những điều này đã góp phần làm giảm nguy cơ cận thị.

    Sự khác biệt cơ bản còn phải kể đến việc ngày nay người ta sử dụng nhiều sản phẩm điện tử như điện thoại, ti vi, máy tính… có ảnh hưởng đáng kể đến thị lực, góp phần làm tăng tỉ lệ người bị cận thị.  

    10 vạn lượng vàng, người xưa lấy đâu ra nhiều vàng mà ban thưởng vậy?

    Vàng là kim loại quý hiếm. Cho đến nay, tổng sản lượng vàng do con người khai thác chỉ đạt là 190.000 tấn, trong đó hơn 2/3 được khai thác sau năm 1950.

    Tin mới