Vương triều Nguyễn từng cứu tàu đắm ở Hoàng Sa

Những việc như trồng cây, lập miếu thờ hay cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa cho thấy triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này.

Trong thời kỳ làm hoàng đế (khoảng 1833 - 1840), vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đất nước đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ: Vào tháng 12/1836 thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn bị vỡ rồi đắm, hơn 90 người đã được nhà Nguyễn cứu sống đưa vào bờ biển Bình Định.
Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình” (tức là muôn dặm sóng êm).
Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ Đông, Tây, Nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than Thạch.
Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.
Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.
Vua được tin, dụ tinh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt.
Phái viên về tâu, vua nói: "Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen". Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.
Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ ở Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu thuyền phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.
Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (25/5/1791 – 20/1/1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao.

Ông cho lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi.

Dưới thời ông, quân đội nhà Nguyễn được tổ chức thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh. Minh Mạng còn cử quan ra chỉ đạo khai hoang ở ven biển Bắc kỳ và Nam kỳ.

Là người tinh thông Nho học và sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến việc học tập và củng cố thi cử. Năm 1822 ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài.

(Bách khoa toàn thư)

Làm gì khi bị hiểu lầm?

HỎI: Lúc trước, tôi bị hiểu lầm, vì muốn minh oan nên tôi đã có ý định tự hại mình. Nay tôi biết việc tự làm hại bản thân cũng mang tội. Bị hiểu lầm cũng chính là quả báo. Cho tôi hỏi, khi bị hiểu lầm phải vui vẻ trả quả chứ không được tự hại mình vì mang tội phải không? Tôi phải làm gì khi bị người khác hiểu lầm?
                                                                         (NGỌC KHÁNH, ngock2498@gmail.com)

ĐÁP: Bạn Ngọc Khánh thân mến!

Hành trang đặc biệt của Hải đội Hoàng Sa xưa

(Kiến Thức) - 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán…là những vật bất ly thân của quân binh Hải đội Hoàng Sa xưa.

Theo sử cũ ghi chép, dưới thời các Chúa Nguyễn sau đó là các vua triều Nguyễn, nhà nước phong kiến Việt Nam đã thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải làm nhiệm vụ đi thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, cắm mốc chủ quyền. Ngày nay, tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn còn lưu giữ lại những hành trang năm xưa mang theo và có một “khu mộ gió” quân binh sừng sững giữa đảo. Trong ảnh là nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Công trình mô phỏng kiến trúc truyền thống với bộ mái cùng trang trí kiểu thời Nguyễn được hoàn thành tháng 1/2010. Nơi đây trưng bày những hiện vật, tài liệu về hoạt động của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.
 Theo sử cũ ghi chép, dưới thời các Chúa Nguyễn sau đó là các vua triều Nguyễn, nhà nước phong kiến Việt Nam đã thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải làm nhiệm vụ đi thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, cắm mốc chủ quyền. Ngày nay, tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn còn lưu giữ lại những hành trang năm xưa mang theo và có một “khu mộ gió” quân binh sừng sững giữa đảo. Trong ảnh là nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Công trình mô phỏng kiến trúc truyền thống với bộ mái cùng trang trí kiểu thời Nguyễn được hoàn thành tháng 1/2010. Nơi đây trưng bày những hiện vật, tài liệu về hoạt động của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.
Việc thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải là minh chứng lịch sử khẳng định trung thực nhất nhà nước phong kiến Việt Nam trong công cuộc chinh phục biển Đông, gây dựng chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong ảnh là mô hình thuyền câu dùng để đi biển của Hải đội Hoàng Sa (do nghệ nhân Võ Hiển Đạt - xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn phục chế).
 Việc thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải là minh chứng lịch sử khẳng định trung thực nhất nhà nước phong kiến Việt Nam trong công cuộc chinh phục biển Đông, gây dựng chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong ảnh là mô hình thuyền câu dùng để đi biển của Hải đội Hoàng Sa (do nghệ nhân Võ Hiển Đạt - xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn phục chế).
Trải qua nhiều thế kỉ, đã có rất nhiều võ quan, binh lính thừa lệnh triều đình hi sinh khi đi làm nhiệm vụ giong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, trồng cây, cắm mốc, dựng bia chủ quyền của nước ta với các quần đảo này. Trong ảnh là nghi thức lễ cuối cùng tại lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là dẫn đoàn thuyền có hình nhân thế mạng ra khơi, tái hiện lại chuyến đi của quân binh khi xưa.
 Trải qua nhiều thế kỉ, đã có rất nhiều võ quan, binh lính thừa lệnh triều đình hi sinh khi đi làm nhiệm vụ giong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, trồng cây, cắm mốc, dựng bia chủ quyền của nước ta với các quần đảo này. Trong ảnh là nghi thức lễ cuối cùng tại lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là dẫn đoàn thuyền có hình nhân thế mạng ra khơi, tái hiện lại chuyến đi của quân binh khi xưa. 
Theo ghi chép trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn năm 1776 (từng làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa thế kỷ XVIII) kể rằng: "Nhà Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở An Vĩnh (xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn ngày nay) bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch...
 Theo ghi chép trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn năm 1776 (từng làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa thế kỷ XVIII) kể rằng: "Nhà Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở An Vĩnh (xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn ngày nay) bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch...
..Đội Hoàng Sa này được cấp mỗi người sáu tháng lương thực. Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo Hoàng Sa. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa được tái hiện.
 ..Đội Hoàng Sa này được cấp mỗi người sáu tháng lương thực. Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo Hoàng Sa. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa được tái hiện. 
Họ tha hồ lượm nhặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ nhặt được những đồ như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, ngà voi...do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào đảo. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa.
 Họ tha hồ lượm nhặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ nhặt được những đồ như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, ngà voi...do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào đảo. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa. 
Trong “Đại Nam thực lục chính biên” do các sử thần trong quốc sử quán biên soạn có ghi chép, Hải đội Hoàng Sa còn kiêm quản cả đội Bắc Hải cùng làm nhiệm vụ ở Trường Sa và các đảo phía trong Nam. Đặc biệt, đội Hoàng Sa còn làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, canh chừng giặc biển, dựng bia chủ quyền và giữ gìn các hải đảo Hoàng Sa.
 Trong “Đại Nam thực lục chính biên” do các sử thần trong quốc sử quán biên soạn có ghi chép, Hải đội Hoàng Sa còn kiêm quản cả đội Bắc Hải cùng làm nhiệm vụ ở Trường Sa và các đảo phía trong Nam. Đặc biệt, đội Hoàng Sa còn làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, canh chừng giặc biển, dựng bia chủ quyền và giữ gìn các hải đảo Hoàng Sa.
Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi/ Trường Sa lắm đảo, nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây. Đó là những câu ca của người dân trên đảo Lý Sơn truyền tụng về những hiểm nguy, khó khăn gian khổ của người lính đi Hoàng Sa, Trường Sa thi hành nhiệm vụ khi ấy. Ảnh: Mỗi lần tế thần, danh sách những người lính đi Hoàng sa luôn được vinh danh để con cháu tưởng nhớ, tri ân.
 Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi/ Trường Sa lắm đảo, nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây. Đó là những câu ca của người dân trên đảo Lý Sơn truyền tụng về những hiểm nguy, khó khăn gian khổ của người lính đi Hoàng Sa, Trường Sa thi hành nhiệm vụ khi ấy. Ảnh: Mỗi lần tế thần, danh sách những người lính đi Hoàng sa luôn được vinh danh để con cháu tưởng nhớ, tri ân. 
Với những người lính khi thành lập đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, lệnh vua ban xuống không chỉ là lệnh mà còn là tấm lòng, ý chí quyết tâm ra đi vì đất nước. Ảnh: Những sắc phong, chỉ dụ của nhà Nguyễn cho Hải đội Hoàng Sa.
  Với những người lính khi thành lập đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, lệnh vua ban xuống không chỉ là lệnh mà còn là tấm lòng, ý chí quyết tâm ra đi vì đất nước. Ảnh: Những sắc phong, chỉ dụ của nhà Nguyễn cho Hải đội Hoàng Sa.

Trong chuyến hải trình dài ngày đến Hoàng Sa, Trường Sa, người lính đã biết là sẽ gặp hiểm nguy do sóng to, gió lớn rình rập, hoặc những nguyên nhân nào khác thì cũng sẽ lấy lòng biển khơi làm nơi mai táng mình. Ảnh: Ông Nguyễn Cậu, trưởng làng An Vĩnh, đánh trống xuất quân hùng binh Hoàng Sa.
 Trong chuyến hải trình dài ngày đến Hoàng Sa, Trường Sa, người lính đã biết là sẽ gặp hiểm nguy do sóng to, gió lớn rình rập, hoặc những nguyên nhân nào khác thì cũng sẽ lấy lòng biển khơi làm nơi mai táng mình. Ảnh: Ông Nguyễn Cậu, trưởng làng An Vĩnh, đánh trống xuất quân hùng binh Hoàng Sa. 
Ngoài những vật dụng cần thiết mang theo để sống cho chuyến đi, mỗi quân binh của Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn chuẩn bị cho mình 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Ảnh: Dây mây đội quân binh Hoàng Sa mang theo để đồng đội bó xác nếu hi sinh trên biển.
 Ngoài những vật dụng cần thiết mang theo để sống cho chuyến đi, mỗi quân binh của Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn chuẩn bị cho mình 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Ảnh: Dây mây đội quân binh Hoàng Sa mang theo để đồng đội bó xác nếu hi sinh trên biển.
Nếu trong chuyến đi, chẳng may qua đời thì các đồng đội sẽ dùng manh chiếu bó thi hài và thẻ bài làm một, dùng 7 nẹp tre kẹp lại rồi lấy 7 sợi dây mây buộc chặt. Sau vài nghi lễ giản đơn, thi hài được thả xuống biển. Ảnh: 7 nẹp tre để nẹp thi hài đồng đội.
 Nếu trong chuyến đi, chẳng may qua đời thì các đồng đội sẽ dùng manh chiếu bó thi hài và thẻ bài làm một, dùng 7 nẹp tre kẹp lại rồi lấy 7 sợi dây mây buộc chặt. Sau vài nghi lễ giản đơn, thi hài được thả xuống biển. Ảnh: 7 nẹp tre để nẹp thi hài đồng đội. 
Tất cả đồng đội đều cúi đầu gửi nguyện ước lên trời xanh rằng thi hài đã mất sẽ trôi dạt vào bờ để người dân biết tên họ, quê quán người hi sinh vì nước mà chôn cất. Ảnh: Đôi chiếu mang theo để bó thi hài.
 Tất cả đồng đội đều cúi đầu gửi nguyện ước lên trời xanh rằng thi hài đã mất sẽ trôi dạt vào bờ để người dân biết tên họ, quê quán người hi sinh vì nước mà chôn cất. Ảnh: Đôi chiếu mang theo để bó thi hài. 
Ngày nay, tại nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn lưu giữ những hành trang năm xưa quân binh mang theo. Đó là 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Hành trang đó như để khẳng định một tấm lòng, một tinh thần cảm tử quyết tâm ra đi của những hùng binh khi ấy. Ảnh: Bài vị khắc tên họ, quê quán của các quân binh Hoàng Sa, Bắc Hải. (Ảnh: Tam Hiệp - Hà Kiều).
 Ngày nay, tại nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn lưu giữ những hành trang năm xưa quân binh mang theo. Đó là 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Hành trang đó như để khẳng định một tấm lòng, một tinh thần cảm tử quyết tâm ra đi của những hùng binh khi ấy. Ảnh: Bài vị  khắc tên họ, quê quán của các quân binh Hoàng Sa, Bắc Hải. (Ảnh: Tam Hiệp - Hà Kiều). 

Tin mới